Cập nhật thông tin chi tiết về Bảo Tồn Văn Hóa Trong Phát Triển Du Lịch Miền Núi mới nhất trên website Samthienha.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lễ hội truyền thống của đồng bào Cơ-tu (Quảng Nam) thu hút khách du lịch.
Nhiều ý kiến cho rằng, phát triển du lịch tại vùng dân tộc thiểu số (DTTS) chính là “mỏ vàng” nếu biết khai thác. Đây là vấn đề đặt ra từ lâu, nhưng trong quá trình vận động không hẳn đã dễ dàng, nhất là thu hút vốn đầu tư vào vùng địa lý không thuận lợi, sự phát triển kinh tế – xã hội còn hạn chế.
Tới nay, du lịch đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nước ta. Các mô hình du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch nông thôn… đang được nhiều nơi áp dụng. Ở miền núi, du lịch cộng đồng cũng từng bước phát triển, trong đó di sản văn hóa chính là tài sản nguồn lực tạo nên sản phẩm du lịch. Theo thời gian, lượng du khách đến với các bản làng ngày một nhiều hơn.
Theo một kết quả nghiên cứu của ngành du lịch thì có tới 90% du khách quốc tế thích nghe hướng dẫn viên du lịch là người DTTS; 71% du khách muốn được ăn và ngủ ngay tại cộng đồng các làng người DTTS (đặc biệt là ở các điểm du lịch xa trung tâm huyện lị từ 10-20 km thì du khách càng có nhu cầu nghỉ tại cộng đồng thôn bản); 81% du khách muốn được tham gia vào các hoạt động của người dân như dệt vải, làm ẩm thực, chế biến thuốc tắm…; 83% du khách muốn mua sản phẩm đồ lưu niệm ngay tại nơi sản xuất của người dân ở các hộ gia đình.
Như vậy, nói cách khác, muốn phát triển du lịch cộng đồng ở vùng đồng bào DTTS thì vai trò của người dân bản địa phải được đề cao, họ phải là nhân tố chính để phát triển du lịch chứ không phải chỉ là người được thụ hưởng một phần nào đó khi tham gia vào “chuỗi giá trị”. Khi các doanh nghiệp đầu tư vốn để phát triển du lịch ở vùng đồng bào DTTS thì cần chú ý một cách đầy đủ yếu tố này, để “cả hai cùng thắng”, nếu không sẽ không bền vững. Mặt khác, nguy hiểm hơn, là rất dễ đưa tới nguy cơ làm biến mất những giá trị truyền thống của một cộng đồng, một vùng đất.
Biểu diễn văn nghệ tại bản du lịch cộng đồng Khe Rạn (Nghệ An).
Nói như Tiến sĩ Trần Hữu Sơn thì du lịch miền núi là sự kết hợp của 4 nhóm nhân tố: Du khách, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, cư dân bản địa, chính quyền cơ sở. 4 yếu tố này luôn quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó chính quyền cơ sở là đầu mối nhằm quản lý các dịch vụ lưu trú, ăn nghỉ, sinh hoạt…; có quyền thống nhất về giá cả nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp bắt chẹt từng hộ gia đình, ép các hộ gia đình giảm giá để thu lợi ích riêng của doanh nghiệp.
Về bản chất, du lịch cộng đồng là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên của cộng đồng, do cộng đồng chủ động tham gia xây dựng sản phẩm quản lý và vì lợi ích của cộng đồng. Tất nhiên cũng phù hợp với lợi ích của nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, nơi nào phát triển du lịch cộng đồng mà người dân bản địa được coi trọng, vai trò của chính quyền cơ sở rõ ràng thì nơi phát triển tốt: Trong quá trình khai thác tiềm năng du lịch thì người dân được hưởng lợi, địa phương được hưởng lợi, doanh nghiệp thuđược lợi nhuận và văn hóa truyền thống, cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn. Có thể thấy được điều đó qua thành công của các điểm du lịch vùng đồng bào DTTS ở bản Lác (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình); ở bản Dền (xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai); bản Áng (huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La); bản Mển, Phiêng Lơi (tỉnh Điện Biên)… Tại những nơi này, số hộ nghèo trong xã, bản giảm nhanh, do nguồn thu của các hộ làm dịch vụ du lịch cao gấp từ 5-10 lần so với các hộ không làm du lịch.
Nhiều ý kiến cho rằng, muốn phát triển du lịch theo hướng bền vững khu vực miền núi đòi hỏi cộng đồng các DTTS ở các điểm du lịch phải bảo vệ được bản sắc văn hoá dân tộc. Vì bản sắc văn hoá không chỉ là tài nguyên mà còn là tài sản sản xuất ra các sản phẩm du lịch. Đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc thì điểm du lịch đó sẽ lụi tàn không còn sức hấp dẫn du khách. Nhưng muốn giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hoá dân tộc cũng không dễ, trước những nguồn lợi trước mắt do du lịch mang lại.
Ở khía cạnh này, thật đáng lo ngại khi tại một số điểm du lịch miền núi, người ta thấy các sản phẩm chính gốc địa phương đang ngày một ít dần. Thay vào đó là những sản phẩm “nhái” chất lượng thấp, được sản xuất hàng loạt thay vì làm thủ công. Cùng đó, các lễ hội dân gian truyền thống bị “sân khấu hóa”, dàn dựng lại quá “chuyên nghiệp”, nó làm mất đi những gì chân chất, mộc mạc, đôi khi còn dẫn du khách tới chỗ hiểu không đúng về các tập tục. Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã phải lên tiếng về thực trạng này và đi đến kết luận: Tuyệt đối không được làm giả các sinh hoạt văn hoá truyền thống chỉ nhằm mục đích thu hút khách du lịch.
Tương tự, theo Tiến sĩ Phan Văn Hùng thì muốn phát triển du lịch ở vùng DTTS và miền núi thì phải bảo tồn văn hoá truyền thống các dân tộc. Văn hoá các tộc người ở đây là những nét đặc sắc trong lối sống hoặc văn hoá vật thể như ẩm thực, trang phục, kiến trúc nhà cửa, trò chơi dân gian, lễ hội, tôn giáo; những giá trị của văn hoá cổ các tộc người chắt lọc, lưu truyền qua nhiều thế hệ như hệ thống chùa tháp đặc sắc, văn tự , đồ hoạ… Đặc biệt, phát triển du lịch phải có sự tham gia trực tiếp của đồng bào DTTS và họ phải được hưởng lợi thỏa đáng từ các hoạt động này. Từ đó họ thấy được những giá trị cụ thể của văn hóa truyền thống dân tộc mình, có những hành động thiết thực để bảo tồn những giá trị đó. Có giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống các DTTS mới phát triển du lịch một cách bền vững- theo Tiến sĩ Phan Văn Hùng.
Phát Triển Du Lịch Văn Hóa Tiểu Vùng Du Lịch Miền Núi Tây Bắc
Ngày đăng: 20/03/2015, 16:52
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn ThS Du lịch :Nguyễn Thị Huyền Nghd. : TS. Phạm Quốc Sử Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại ngày nay, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển và phát triển vững chắc đều phải xác định, ngoài yếu tố vật chất, phải đi tìm những mục tiêu và động lực từ những yếu tố tinh thần, yếu tố văn hóa. Ngược lại, chiến lược phát triển văn hóa cũng không thể tách rời chiến lược phát triển con người và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21, thế kỷ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên, trong điều kiện xuất phát điểm còn thấp của chúng ta hiện nay, việc hội nhập, đổi mới như thế nào để không bị đánh mất mình trước sự bùng nổ của thời đại thông tin và giao thoa văn hóa toàn cầu hiện nay là một dấu hỏi lớn. Thực tiễn đã chứng minh có nhiều quốc gia giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, giữa hiện đại và truyền thống. Nhưng cũng có rất nhiều bài học đau lòng của những quốc gia phải trả giá cho sự ngộ nhận phát triển là tất cả, bằng mọi giá, là xem nhẹ, bỏ qua các giá trị truyền thống, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Việt Nam là một quốc gia tương đối đa dạng, đặc sắc về tài nguyên văn hóa. Vì lẽ đó, xu hướng phát triển du lịch văn hóa là một trong những hướng đi khả thi và hứa hẹn cho du lịch Việt Nam. Trong đó một phần quan trọng là tập trung khai thác các giá trị văn hóa độc đáo mang tính bản địa ở các vùng văn hóa dân tộc thiểu số. Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Quan tâm phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng – an ninh ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 2 tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, chú trọng các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam” [9, tr.94]. Tây Bắc là một vùng đồng bào dân tộc miền núi còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế – xã hội nhưng mặt khác lại là vùng rừng núi chứa đựng một kho báu tài nguyên du lịch văn hóa cũng như tự nhiên. Trong những năm gần đây, hoạt động du lịch văn hóa ở Tây Bắc đã tương đối phát triển ở một số địa phương các tỉnh trong vùng như Lào Cai, Điện Biên, Hòa Bình và gần đây là Yên Bái. Nhưng sự phát triển này còn mang tính nhỏ lẻ , thiếu đồng bộ và định hướng, nhất là việc cân đối giữa khai thác và bảo tồn, giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hóa. Định hướng phát triển du lịch văn hóa ở các vùng dân tộc thiểu số nói chung và vùng Tây Bắc nói riêng là một định hướng mang tính chiến lược của Tổng cục Du lịch và Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch hiện nay nằm trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế – xã hội miền núi, đề cao vai trò của văn hóa các dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì lẽ đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc” nhằm bước đầu tìm ra những lợi thế về tài nguyên văn hóa du lịch của các dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị về việc phát triển và phát triển bền vững du lịch văn hóa ở tiểu vùng du lịch này. 2. Mục đích nghiên cứu Hiện nay, hệ thống tư liệu nghiên cứu về lĩnh vực du lịch ở nước ta cũng tương đối nhiều nhưng công trình nghiên cứu về du lịch văn hóa thì hầu như chưa có, chỉ là các bài báo rải rác trên các tờ tạp chí, trên internet Vấn đề quy hoạch du lịch cũng đã được triển khai đến từng tỉnh. Tuy nhiên các chiến lược phát triển cụ thể mang tính liên vùng thì còn khá ít. Vì vậy, công trình nghiên Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 3 cứu này nhằm mục đích đưa ra được những thông tin và kiến thức cần thiết về phát triển một loại hình du lịch đặc trưng và phù hợp cho một tiểu vùng du lịch, cụ thể là tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình du lịch văn hóa tại 6 tỉnh tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc là Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái theo phân vùng của môn địa lý du lịch. Bên cạnh đó có mở rộng phạm vi nghiên cứu và so sánh, liên hệ tại một số vùng có cùng khu vực văn hóa thuộc địa phận một số huyện phía Tây Bắc, giáp với Sơn La và Yên Bái của tỉnh Phú Thọ như Thanh Sơn, Hạ Hòa. Thời gian: nghiên cứu thực tế hoạt động du lịch chủ yếu trong năm 2006 và nửa đầu năm 2007. Nội dung: Những nghiên cứu và đề xuất, khuyến nghị đưa ra trong luận văn nhằm áp dụng cho phát triển du lịch văn hóa tại tiểu vùng Tây Bắc nói riêng, nhưng cũng có những đề xuất có thể áp dụng cho các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: – Phương pháp tổng hợp và phân tích, giám định tư liệu để xá định tính chính xác và độ tin cậy của tư liệu. – Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa để đánh giá tiềm năng và thực trạng du lịch văn hóa tiểu vùng đồng thời nhằm phát hiện những hướng gợi mở xuất phát từ tình hình thực tiễn làm cơ sở cho các đề xuất trong đề tài. – Phương pháp so sánh, đối chiếu các dữ liệu Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 4 – Phương pháp hệ thống 5. Đóng góp của luận văn – Dựa trên những nghiên cứu từ một địa bàn cụ thể, luận văn hy vọng góp phần đề xuất được những giải pháp phát triển du lịch văn hóa có hiệu quả và bền vững cho vùng Tây Bắc nước ta – nơi còn lưu giữ được một trữ lượng đáng kể những giá trị văn hóa bản địa đặc sắc nhưng đang bị khai thác một cách tự phát, chưa có định hướng chặt chẽ – cũng là những nơi không thể nằm ngoài và cưỡng lại được dòng chảy mạnh mẽ của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. – Đánh giá một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống nguồn tài nguyên du lịch văn hóa trong tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Việt Nam cũng như thực trạng của hoạt động khai thác du lịch văn hóa tiểu vùng. – Bước đầu nêu lên ý tưởng xây dựng hình ảnh du lịch văn hóa cho tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc – điều mà lâu nay những người làm du lịch đã nhận thức được yêu cầu cấp thiết cũng như điều kiện dồi dào của Tây Bắc để có thể thực hiện nhưng chưa làm được. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Tiềm năng du lịch văn hóa của tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Chương 2: Hoạt động du lịch văn hóa tại tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch văn hóa cho tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 5 CHƢƠNG 1 TIỀM NĂNG DU LỊCH VĂN HÓA CỦA TIỂU VÙNG DU LỊCH MIỀN NÚI TÂY BẮC 1.1. Khái quát về Tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Việt Nam 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên Theo phân định địa lý, Tây Bắc là khu vực bao gồm lãnh thổ của các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai [33, tr.22]. Về lãnh thổ văn hóa thì còn bao gồm tỉnh Yên Bái và một phần của tỉnh Phú Thọ. Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc chỉ bao gồm 3 tỉnh là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, có khi thêm tỉnh thứ tư là Hòa Bình. Mặc dù một số phần của Lào Cai, Yên Bái và Phú Thọ nằm ở hữu ngạn sông Hồng, do dòng sông chạy qua giữa địa phận các tỉnh này, song phạm vi hành chính của vùng Tây Bắc không bao gồm các phần đó. Theo phân môn Địa lý du lịch, tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc bao gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái. Như vậy, Tây Bắc thực ra là tên gọi theo phương vị, lấy thủ đô Hà Nội làm điểm chuẩn. Về căn bản, theo cách phân định nào thì về điều kiện địa lý tự nhiên, khu vực này cũng mang những đặc điểm cơ bản như sau: Biên giới của vùng phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây và Nam giáp Lào, phía Đông và Nam giáp Thanh Hóa, Phú Thọ, Tây Bắc là một miền núi cao hiểm trở, địa hình chia cắt bởi các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Trong đó, dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180km, rộng 30km, cao từ 1500m trở lên, là đoạn tận cùng phía Đông Nam của dãy núi Himalaya. Đỉnh cao nhất là Phan-xi-păng 3.143m (có tài liệu nói là 3.142m) được người Thái gọi là Khau Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 6 Phạ tức “sừng trời”, chính là bức tường thành phía Đông của vùng Tây Bắc; một số đỉnh cao khác như Tả Giàng Phình 3.090m; Pu Sa Leng 3.096m; Pú Luông 2.983m. Núi cao tạo nên những con đèo dài cả mấy chục cây số như Pha Đin, Lũng Lô, hay Ô Qui Hồ, Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Do vậy, khí hậu Tây Bắc nói chung đa dạng, bao gồm nhiều vùng tiểu khí hậu. Dẫu rằng cũng nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do độ cao nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, dòng sông, khe suối tạo nên những thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên. Trong lúc ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông trong mùa hè. Hệ thống sông, suối của Tây Bắc khá dày đặc với các con sông lớn là sông Đà và sông Hồng và phần thượng nguồn của dòng sông Mã, các dòng chảy có độ chênh lớn, hàng năm đưa nguồn phù sa vô tận về bồi đắp cho miền xuôi. Đất Tây Bắc vì thế được đồng bào gọi là đất “ba con sông”, tạo nên ba dải “nước màu: trắng, xanh, đỏ”. Dòng sông Mã chảy từ Điện Biên xuống đến phía Tây tỉnh Sơn La thì quặt sang đất Lào và trở về miền Tây Thanh Hóa xuôi về biển. Bởi vì sông Mã lắm thác, lắm ghềnh nên nhiều sóng bạc đầu. Lại còn có truyền thuyết dòng sông là nữ thần canh giữ mở bạc mà xưa kia người Thái – La ha thường khai thác. Dòng sông thứ hai là Nặm Tè (sông Đà) chảy giữa các triền núi đá granít, sâu thẳm xanh đen một màu. Trên đường đi, dòng Nặm Tè hợp lưu nhiều suối nhỏ và cả một dòng sông Nặm Na ngay ở Lai Châu. Còn dòng thứ ba là Nặm Tao mang nặng phù sa thì chính người Kinh cũng gọi là sông Hồng (sông đỏ). Vì vậy, thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình. Phần lớn đất đai Tây Bắc có độ dốc cao. Đất có độ dốc thoải tập trung vào một số cao Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 7 nguyên lớn: Tả Phình, Sìn Hồ, Sơn La (Nà Sản, Mộc Châu) và 4 vùng lòng chảo nổi tiếng: Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than, Mường Tấc. Độ màu mỡ của đất đai tương đối cao. Lượng mưa lớn (trên dưới 2.000mm/năm) đã tạo ra thảm rừng quanh năm xanh tốt với nhiều loại cây rừng, chim, thú quý. Dân gian có câu “rừng vàng” có lẽ rất đúng với núi rừng Tây Bắc. Đó là nơi cư trú của rất vô số loài thú trong đó có nhiều loài quý hiếm (những khảo sát gần đây cho thấy ở hệ núi Hoàng Liên có đến 16 loài thú được ghi trong sách đỏ thế giới có nguy cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ). Giữa cảnh núi rừng thỉnh thoảng bắt gặp những đồng lúa rộng lớn như Mường Thanh, Quang Huy hay những đồi chè bạt ngàn ở Nghĩa Lộ, Yên Bái, những đồng cỏ trù phú cho chăn nuôi bò sữa ở Mộc Châu, Và đặc biệt, gần đây, du khách tới Tây Bắc không thể quên được ấn tượng khi chiêm ngưỡng những vạt núi, triền núi cao chọc trời hai bên đường quốc lộ trải kín một màu xanh biếc của những thảm ngô. Những ấn tượng này đã được lưu lại trong một kiệt tác nhiếp ảnh mang tên “Ngô leo núi”. Nhà địa lý Lê Bá Thảo đã có một nhận xét có lẽ khá chính xác: “Chưa ai nói rằng chúng ta đã phát hiện ra tất cả sự giàu có của thiên nhiên Tây Bắc. Ngay cả vẻ đẹp của vùng lãnh thổ này cũng khó nhận thức hết ” 1.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội Tây Bắc có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng vì có đường biên giới chung với Trung Quốc và Lào dài trên 800km. Đây là vùng đầu nguồn xung yếu của sông Đà, nơi có các nhà máy thủy điện lớn của cả nước, mái nhà xanh của đồng bằng Bắc Bộ. Dải biên giới có các cửa khẩu lớn, là các cửa khẩu ra vào quan trọng để giao lưu hàng hóa, phát triển kinh tế hiện tại cũng như tương lai trong những năm tới. Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 8 Tây Bắc là một trong những khu vực cư trú của nhiều tộc người. Tại vùng Tây Bắc từ thời Pháp thuộc đã lập ra xứ Thái tự trị. Sau chiến thắng Điện Biên, năm 1955, Chính phủ Việt Minh đã thành lập khu tự trị Thái – Mèo, bao gồm 3 tỉnh Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ. Tên gọi này không phản ánh được sự đa dạng của cộng đồng khoảng hai chục dân tộc sinh sống tại đây và bị giải tán năm 1958. Năm 1962 gọi là khu tự trị Tây Bắc. Khu tự trị này cũng giải thể năm 1975. Chỉ kể những dân tộc tương đối đông dân đã có Thái (với các ngành Đen, Trắng). H’Mông với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa. Dao (với các ngành Quần chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ, Dao đen), Mường, Khơ mú, La ha, Xinh mun, Tày, Ngoài ra còn có một bộ phận người Kinh vốn là con cháu nghĩa binh Hoàng Công Chất đã sống lâu đời ở đây và một bộ phận người Hoa, vốn là dòng dõi quân Lưu Vĩnh Phúc. Mỗi dân tộc đều mang bản sắc văn hóa riêng. Theo dòng lịch sử, các cơ tầng văn hóa của một quần thể dân tộc đa dạng như thế đã hợp thành những nét đẹp văn hóa vô cùng độc đáo cho miền đất này. Dân số vùng tương đối thấp, năm 1978 mới có 59 người/km 2 . Với tỷ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, năm 1990 cũng chỉ có 120 người/km 2 (Nguồn: Viện Chiến lược phát triển) [35]. Cư dân cổ truyền, những chủ nhân từ xa xưa của Tây Bắc đều làm nông nghiệp với hai loại hình: ruộng nước ở thung lũng và nương rẫy ở sườn núi. Người Thái có câu ngạn ngữ: Xá ăn theo lửa, Thái ăn theo nước, H’Mông ăn theo sương mù. Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế – xã hội và văn hóa của vùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã có những bước tiến đáng kể. Mức sống của nhân dân được tăng lên. Sự đầu tư của Nhà nước vào các công trình kinh tế trọng điểm vùng Tây Bắc được chú trọng như xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 9 và tới đây là công trình thủy điện Mường La – Sơn La, phát triển các hệ thống đường giao thông nối liền các tỉnh và Hà Nội, phát triển các trung tâm đô thị như thị xã Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, thành phố Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái. Các trung tâm huyện của các tỉnh Tây Bắc cũng được đầu tư xây dựng khang trang hơn trước. Hệ thống giao thông, bưu điện, trường học, bệnh viện được mở rộng. Trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc được nâng lên. Nhân dân đã quan tâm hơn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới thị trường và sản xuất hàng hóa, quan tâm tới đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Tiềm năng du lịch nhân văn phong phú, đa dạng cũng là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Nhân dân các dân tộc Tây Bắc luôn có truyền thống đoàn kết trong dựng nước và giữ nước, trong sản xuất thì cần cù, chịu khó. Với nguồn lao động tại chỗ tương đối dồi dào (khoảng 968.000 người), tuy số người được đào tạo nghề nghiệp còn quá ít (khoảng 1,7% dân số) nhưng là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội. Đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào quá trình ổn định tình hình chính trị – xã hội, an ninh – quốc phòng và thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển đúng hướng. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc hiện đang đứng trước những khó khăn to lớn trong quá trình phát triển cần phải giải quyết. Đó là tình trạng phát triển không đồng đều giữa các dân tộc, điều kiện địa lý phức tạp, giao thông khó khăn, dân cư phân tán, trình độ dân trí trình độ sản xuất thấp, nguồn nhân lực thiếu và yếu, sức hấp dẫn thu hút đầu tư trong nước và quốc tế hạn chế, Kinh tế Tây Bắc vẫn phát triển chậm so với nhiều vùng trong cả nước. Thu không đủ chi, tỉnh thu ngân sách cao nhất như Hòa Bình cũng chỉ mới đảm bảo được 49% của chi, còn tỉnh thu thấp như Lai Châu chỉ đảm bảo được 15% của chi thường xuyên, số […]… truyền thống Tây Bắc vô cùng phong phú và độc đáo Mỗi dân tộc có cả kho tàng những kinh nghiệm ăn uống cũng như sở thích và thực Luận văn cao học 19 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc đơn riêng Đây thực sự là một nguồn tài nguyên vô tận và không thể thiếu trong khai thác du lịch văn hóa Tây Bắc Ẩm thực Thái Có nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét nền văn hóa Thái… năng to lớn cho phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa – lịch sử Là vùng cửa ngõ về hướng Tây và Bắc của tổ quốc, vùng đất sớm chứng kiến và tiếp nhận quá trình di cư của nhiều tộc người từ buổi đầu dựng nước, Tây Bắc là một khu vực có nền văn hóa tương đối lâu đời với những giá trị văn hóa lịch sử đặc sắc và một hệ thống di sản văn hóa tiêu biểu Nhân dân các tộc người Tây Bắc đã sát cánh… tương đồng về nhiều yếu tố và trình độ văn hóa, tổ chức xã hội cơ sở truyền Luận văn cao học 13 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc thống, chế độ tự trị và tư tưởng cục bộ trong các đơn vị làng – xã hay mường chiềng, văn hóa vật chất, ngôn ngữ, chữ viết, từ vựng, văn học dân gian Như vậy, về phương diện lịch sử cũng như văn hóa dân tộc, người Mường – Hòa Bình… một động lực để phát triển ở khu vực đang là một vấn đề gặp nhiều thử thách Luận văn cao học 10 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc 1.2 Các tộc ngƣời Tây Bắc 1.2.1 Tộc người Thái Lịch sử dân tộc Người Thái còn được gọi là người Táy, Táy Khao (Thái Trắng), Táy Đăm (Thái Đen), Táy Mười, Táy Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc Dân tộc Thái… cộng đồng khoảng 20 dân tộc cùng dệt nên tấm vải nhiều màu Luận văn cao học 14 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc sắc nhưng đẹp và ấn tượng của miền Tây Bắc xa thẳm của tổ quốc Trong đó có một vài tộc người cũng khá nổi bật về một số giá trị văn hóa truyền thống Dân tộc Dao “Dao là tên tự gọi, theo phát âm đúng của đồng bào thì gọi là Dìu, Yù, Ìn, Bieò đọc theo… tộc thiểu số, nhưng tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Mường cũng chứa đựng Luận văn cao học 33 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc một kho tàng văn hóa vô cùng quý giá Sự hiểu biết về nó thực sự sẽ đem lại cho đồng bào dân tộc những giá trị văn hóa phong phú, góp phần làm cho bức tranh văn hóa của đất nước thêm màu sắc Gìn giữ nguồn tài sản này là trách nhiệm không… nên một nền văn hóa Tây Bắc rực rỡ sắc màu với những truyền thống văn hóa tộc người rất riêng và đầy lý thú 1.3 Các giá trị văn hóa – lịch sử vùng Tây Bắc 1.3.1 Đặc điểm chung Tây Bắc là vùng đất có bề dày văn hóa lịch sử và có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, là nơi ghi dấu quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc Cùng với hệ thống cảnh quan hùng vĩ, ngoạn mục riêng có, Tây Bắc thực sự… giao duyên cho đến lời khấn, bùa chú, áng văn tang, các bài văn vần dạy bảo đạo đức trong lễ cưới cho dâu rể, thần thoại, cổ tích, đồng thoại, truyện cười v.v Ở một số dân tộc có cả truyện thơ dài Luận văn cao học 32 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (Mông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v Văn. .. qua nhiều thời kỳ lịch sử đã trở thành truyền thống tốt đẹp của các dân tộc nơi đây Từ đội quân Áo đỏ của Tây Bắc thời Minh xâm lược đến nghĩa quân nông dân Hoàng Công Chất thế kỷ XVIII và Lưu Vĩnh Phúc với nghĩa quân Cờ đen thế kỷ XIX chống giặc Luận văn cao học 17 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Cờ Vàng (Hán) ở Mường Lò và khắp Tây Bắc Khi thực dân Pháp… ngày, du khách ăn cùng gia chủ người Mường sẽ được thưởng thức món rau đồ (các loại rau dại mọc ven đồi, ven suối được đồ Luận văn cao học 22 Nguyễn Thị Huyền Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc chín trong “nồi đồ” bằng gỗ), được nếm món dưa cải muối khô với gừng, muối không có nước rất đậm đà và lạ miệng Trang phục Nét chung trong văn hóa trang phục của đồng bào các dân tộc Tây . du lịch văn hóa của tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Chương 2: Hoạt động du lịch văn hóa tại tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch văn hóa cho tiểu vùng. vùng du lịch miền núi Tây Bắc Phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc Luận văn cao học Nguyễn Thị Huyền 5 CHƢƠNG 1 TIỀM NĂNG DU LỊCH VĂN HÓA CỦA TIỂU VÙNG DU LỊCH MIỀN. “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tiểu vùng du lịch miền núi Tây Bắc& quot; nhằm bước đầu tìm ra những lợi thế về tài nguyên văn hóa du lịch của các dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời
Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng Ở Miền Núi Thanh Hóa
Thanh Hóa có một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên vô cùng phong phú, đa dạng, cảnh quan đẹp, trù phú với nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (Bá Thước, Quan Sơn),khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu (Quan Hóa, Mường Lát),Thác Hươu(Bá Thước); Bến En(Như Thanh), thác Ma Hao(Lang Chánh), động Bo Cúng và núi Lá Hoa (Quan Sơn), Thác Mơ, suối cá thần Cẩm Lương (Cẩm Thủy), Thác Mây, Thác Voi (Thạch Thành),Thác Trai gái, đền Cửa Đặt (Thường Xuân),cửa khẩu quốc tế Na Mèo (Quan Sơn)…
Vùng miền núi Thanh Hóa là địa bàn cư trú của các dân tộc Mường, Thái, Mông, Thổ, Khơ mú, Dao, chúng tôi bên mình bản sắc văn hoá phong phú, đa dạng, đặc sắc, tạo nên bức tranh đa sắc về đời sống văn hoá, xã hội. Từ văn hoá nhà, đến văn hoá mặc, văn hoá ẩm thực, đến văn hóa trong tập tục sinh hoạt, tín ngưỡng, lễ hội… đều toát lên những nét bản sắc văn hoá độc đáo, riêng có. Về lễ hội: Dân tộc Mường có lễ hội Pồn Pông, Khai Hạ, lễ tục Làm vía kéo Xi, lễ Mừng cơm mới, Sắc bùa; Dân tộc Thái có Lễ hội Kin chiêng boọc mạy; Lễ hội Nàng Han; lễ hội Mường Khô ; Lễ hội Mường Ca Da, lễ hội Mường Piềng Muốp; lễ hội Mường Xia; lễ Cầu nước; lễ hội Căm mương; Dân tộc Thổ có lễ hội Đình Thi; Dân tộc Dao có lễ Cấp Sắc, Tết nhảy; Dân tộc Khơ Mú có Lễ Xên; Dân tộc Mông có lễ hội Tén Tằn … Về dân ca, dân vũ, nhạc cụ: Dân tộc Thái có Khặp giao duyên, Hát ru; nhạc cụ: Khua Luống, Khèn bè, Boong bu, Sáo, Trống chiêng, Pí Mốt; múa Cá sa, múa Trống chiêng, múa Chá Chiêng…; Dân tộc Thổ có hát Trống chiêng, hát Đối đáp, hát ru, hát giao duyên, hát chậm đò ho…; múa giã cồn, Chậm đò ho…; Dân tộc Mông có Múa ô, múa khèn, hát gâu plềnh…;nhạc cụ: Sáo, Khèn bè, Đàn môi, Khèn lá…; hát gầu, hát giao duyên; Dân tộc Dao có hát giao duyên, hát ru, hát chào hỏi- đối đáp; hát Pả Dung; múa Chuông, múa Rùa, hát múa trong nghi lễ; nhạc cụ: não bạt..; Dân tộc Khơ mú có hát Tơm; Dân tộc Mường có hát ru, hát giao duyên (xường trai gái), hát Séc bùa, hát nghi lễ, diễn xướng Mo Mường, múa Pồn pông nhạc cụ Cồng chiêng…
Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa còn lưu giữ được không gian văn hóa làng với các nếp nhà sàn truyền thống, trang phục, trang sức của đồng bào Thái, Mường, Dao, Mông còn lưu giữ khá nguyên vẹn, thể hiện đậm nét tập tục sinh hoạt, văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của dân tộc, tiêu biểu như làng Mường Lương Ngọc, xã Cẩm Lương, (Cẩm Thủy); bản Thái Xia Tớ, xã Sơn Thủy, (Quan Sơn); Làng Đồi Muốn, (Bá Thước); làng người Thái, bản Năng Cát (Lang Chánh)… Ẩm thực của đồng bào các dân tộc tỉnh Thanh hóa không cầu kỳ nhưng hấp dẫn bởi hương vị của núi rừng, của tự nhiên như canh đắng, măng đắng, rau sắng, cơm Lam, rượu Ngô của người Mông, rượu cần của người Thái, Mường, vịt Cổ Lũng, cá mè sông Mực… hệ thống các làng nghề truyền thống mang đậm sắc thái tộc người còn lưu giữ khá nguyên vẹn, đó là nghề Dệt Thổ cẩm, làm rượu cần, đan lát thủ công của dân tộc Mường, Thái, Thổ, Khơ Mú, Dao, Mông; nghề kim hoàn, chạm khắc bạc của người Mường, người Dao; nghề rèn của người Mông…
Để loại hình du lịch cộng đồng tại miền núi tỉnh Thanh Hóa phát triển bền vững, phát huy được thế mạnh về tài nguyên du lịch, văn hóa bản địa của các dân tộc, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc miền Tây tỉnh Thanh Hóa, đáp ứng yêu cầu và xu thế phát triển tất yếu của du lịch tỉnh Thanh, chúng ta cần có những giải pháp mang tính đồng bộ và đột phá như sau:
Thứ nhất: Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch nhạy cảm với cuộc sống hiện tại và văn hóa truyền thống của người dân bản địa, nếu chúng ta làm tốt nó có tác động sâu sắc đến xã hội, giúp cho việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, các di tích văn hóa, lịch sử của cộng đồng dân cư làm du lịch… Vì vậy, phát triển du lịch cộng đồng tại miền núi tỉnh Thanh Hóa cần tính toán những tác động của hoạt động du lịch tới đời sống văn hóa của động đồng, làm thể nào để đồng bào vừa tham gia làm du lịch vừa bảo tồn được văn hóa bản làng, văn hóa đặc sắc của địa phương…
– Thứ hai: Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch có sự khác biệt lớn so với các loại hình du lịch khác. Khách du lịch cùng ăn – cùng ở – cùng sinh hoạt với người dân, do vậy cần được tổ chức và quản lý một cách khoa học, phải có sự tham gia của các cấp chính quyền, sự tham gia hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan quản lý về du lịch, sự hợp tác, đồng thuận giữa chính quyền địa phương và cộng đồng, tránh những tác động xấu đến cuộc sống của cộng đồng địa phương.
Thứ ba: Phát triển du lịch cộng đồng cần gắn với việc khôi phục, giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc, làm sống dậy văn hóa bản địa của tộc người, không pha trộn, du nhập văn hóa ngoại lai. Việc gìn giữ, bảo tồn và duy trì các thói quen văn hóa đích thực của đời sống hằng ngày, phong tục tập quán bản địa là những yếu tố thu hút khách du lịch đến với cộng đồng, là yếu tố cần được bảo vệ vì lợi ích lâu dài.Vì vậy, nhất thiết phải tập huấn, tuyên truyền cho cộng đồng nhận thức một cách thấu đáo, sâu sắc và có ý thức trong quá trình làm tham gia làm du lịch tại địa phương.
Thứ tư: Cần có cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm du lịch là người dân bản địa, cần phải trang bị kiến thức, kỹ năng, nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc tham gia hoạt động du lịch. Tập huấn nghiệp vụ quản lý hoạt động du lịch, dịch vụ ăn uống, lưu trú, văn hóa giao tiếp ứng xử và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường…
Thứ năm: Khai thác, phát triển sản phẩm du lịch bản địa, có thể là các món ăn đặc sắc của núi rừng, hoặc lễ hội truyền thống, sắc phục trong không gian văn hóa làng bản.., giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch cộng đồng.
Thứ sáu: Một khu điểm du lịch chỉ có thể phát triển nhanh, mạnh và bền vững khi chúng ta có hệ thống giao thông đi lại thuận lợi, các điều kiện ăn, nghỉ của du khách được đảm bảo; không gian văn hóa du lịch đậm nét cổ truyền, khu điểm du lịch được kết nối tuor tuyến hợp lý, phù hợp với lộ trình của du khách, là yếu tố quan trọng để du lịch cộng đồng phát triển ở vùng núi Thanh Hóa…/
Thùy Minh- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên
Hoạt động du lịch tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai
Trong giai đoạn 2010 – 2017, tốc độ tăng trưởng trung bình về số lượt khách đạt 23,87%, đây là mức tăng trưởng cao so với các khu, điểm du lịch trên địa bàn (trong đó, tăng trưởng trung bình về số lượt khách quốc tế đạt 4,42%, khách du lịch nội địa đạt 0,70%); tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch có lưu trú đạt 2,20%; tốc độ tăng trưởng trung bình khách tham quan là 0,545%. Đến năm 2017, khu bảo tồn có trên 18 ngàn lượt khách đến tham quan.
Khách quốc tế đến khu bảo tồn đa số là các nhà nghiên cứu, nhà khoa học ở các viện, trường, trung tâm nghiên cứu khoa học. Khách du lịch nội địa có tính đa dạng cao hơn, với số lượng khách là học sinh sinh viên chiếm ưu thế vào dịp hè, ngày lễ; khách du lịch là cán bộ công nhân viên các nhà máy, khu công nghiệp, cựu chiến binh có xu hướng tăng nhanh vào mùa khô; khách là cộng đồng dân cư trong địa bàn tỉnh tăng vào dịp lễ hội, tết.
Tốc độ tăng trưởng trung bình về mức chi tiêu đối với khách quốc tế là 13,29%, đối với khách du lịch nội địa là 0,70%, mức chi tiêu của khách quốc tế tăng nhanh hơn khách du lịch nội địa.
Tốc độ tăng trưởng trung bình về doanh thu từ khách du lịch đạt 1,7%, trong đó khách quốc tế là 26%, khách nội địa là 3% và khách tham quan là 1,1%.
Về cơ sở lưu trú, có nhà khách với 34 buồng và cơ sở lưu trú nghỉ tại nhà dân (homestay) tập trung ở Phú Lý và Hiếu Liêm. Tốc độ tăng trưởng trung bình cơ sở lưu trú giai đoạn 2010 – 2017 đạt 26,3%; giá thuê phòng từ 150 – 300.000 đồng/buồng/đêm/khách, chênh lệch giữa khách quốc tế và nội địa không đáng kể…
Một số sản phẩm du lịch tại khu bảo tồn đã và đang thu hút khách du lịch là: du lịch sinh thái gắn với các chương trình tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu về đa dạng sinh học rừng; du lịch văn hóa với các chương trình tham quan tại các di tích lịch sử cách mạng; du lịch cộng đồng gắn liền với sinh thái miệt vườn tham quan vườn cam, quýt, xoài tại Hiếu Liêm và Phú Lý; du lịch làng nghề nuôi hươu, nai tại Hiếu Liêm, rượu Phú Lý với việc trao đổi tham quan học tập kinh nghiệm về phát triển nghề và chế biến các sản phẩm bán cho du khách; du lịch văn hóa gắn liền với văn hóa cộng đồng; du lịch tâm linh; du lịch phượt và vui chơi giải trí trên đảo, hồ Trị An; du lịch cắm trại; ẩm thực gắn liền với đặc sản rau rừng, cá nước ngọt và món ăn truyền thống địa phương trong vùng.
Về các tuyến du lịch, chương trình tham quan di tích lịch sử như Khu miền Đông Nam Bộ, Căn cứ Trung ương Cục, nhà máy điện Trị An chiếm một số lượng lớn khách tham quan trong ngày thời gian qua; đa số khách là các tổ chức đoàn thể, học sinh sinh viên, các cựu chiến binh… Ngoài ra, còn có chương trình du lịch gắn liền với tổ chức sự kiện, cắm trại cho các tổ chức đoàn thể, học sinh sinh viên trong các ngày lễ hoặc nghỉ hè; chương trình du lịch cuối tuần cho cộng đồng dân cư, cán bộ tại các thành phố lân cận.
Bên cạnh nhiều kết quả đạt được trong giai đoạn 2010 – 2017, hoạt động du lịch tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai vẫn còn một số hạn chế nhất định như: tốc độ tăng trưởng về khách du lịch tương đối cao hơn so với các khu điểm du lịch trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhưng còn thấp hơn so với các khu bảo tồn, vườn quốc gia khác trong nước; thị trường du lịch chưa ổn định, chưa xác định thị trường tiềm năng, đặc biệt là thị trường khách du lịch quốc tế; các cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu du lịch, đặc biệt là dịch vụ vui chơi giải trí…
Một số giải pháp Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển du lịch
UBND tỉnh cần thống nhất đề xuất về cơ chế chính sách cho đầu tư và kinh doanh du lịch, xem xét nếu có thể ban hành cơ chế chính sách đầu tư riêng cho khu bảo tồn dựa trên cơ sở khung chính sách chung và những ưu tiên đối với điểm du lịch quốc gia. Nghiên cứu xây dựng một số cơ chế ưu đãi đối với các nhà đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như: du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, phát triển khai thác đảo trên hồ Trị An cho mục tiêu phát triển du lịch và kết hợp bảo tồn… Bên cạnh đó, cần công bố rộng rãi những chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư vào khu bảo tồn, như: hỗ trợ cho các nhà đầu tư về cơ sở hạ tầng ven hồ và trên các đảo hồ Trị An, hồ Bà Hảo, hồ vườn ươm; đầu tư về xử lý chất thải, rác thải tập trung; đầu tư về bảo tồn, bảo vệ hệ sinh thái tại Trung tâm cứu hộ động vật, vườn ươm; hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tổ chức xúc tiến du lịch, tham gia hội chợ, triển lãm, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nếu đầu tư vào phát triển du lịch trong khu bảo tồn.
Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học công nghệ
Tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ du lịch theo định kỳ hàng năm, trong đó chú trọng đào tạo về nghiệp vụ lễ tân, buồng, bar, bếp cho đội ngũ nhân viên trực tiếp tại các cơ sở kinh doanh du lịch; đối với cán bộ đảm nhận thị trường, xúc tiến và lữ hành cần có lựa chọn đặc biệt, ưu tiên những lao động có trình độ tay nghề, có kinh nghiệm, có trình độ ngoại ngữ, được đào tạo nghiệp vụ cơ bản tại các khoa du lịch của các trường đại học kinh tế hệ chính quy.
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực là cộng đồng dân cư trong khu du lịch cả về nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, vấn đề vệ sinh môi trường trong ăn uống và sinh hoạt hàng ngày tạo ra môi trường sinh thái hấp dẫn khách du lịch.
Tăng cường công tác ứng dụng khoa học và công nghệ trong mọi lĩnh vực hoạt động du lịch, đặc biệt ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, thống kê du lịch, thông tin trao đổi, xúc tiến quảng bá tại khu bảo tồn. Khuyến khích ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ xanh thân thiện với môi trường trong sản phẩm du lịch cũng như xây dựng các công trình du lịch.
Phát triển sản phẩm du lịch
Những tiềm năng và lợi thế của khu bảo tồn về tài nguyên sinh thái rừng; tài nguyên sinh thái, cảnh quan hồ Trị An; di tích lịch sử cách mạng, văn hóa dân tộc Chơro và ẩm thực… là cơ sở để xây dựng sản phẩm du lịch đa dạng phong phú với chất lượng cao gắn liền với các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tham quan cảnh quan, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, dịch vụ vui chơi giải trí…
Phát triển sản phẩm du lịch gắn liền với sinh thái miệt vườn các cây ăn quả tại các khu vực ven sông Bé, Hiếu Liêm, nhà vườn tại Phú Lý… và triển khai mô hình homestay.
Phát triển sản phẩm du lịch sinh thái gắn với loại hình du lịch gắn liền với tiềm năng, cảnh quan tại các khu rừng tự nhiên như: chương trình du lịch xuyên rừng già, ngắm thú ban đêm, quan sát cây cổ thụ trong rừng…
Phát triển sản phẩm du lịch đảo trên hồ trở thành khu du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái gắn liền với cây hoa quả bản địa, dịch vụ vui chơi giải trí.
Chú trọng phát triển sản phẩm du lịch cuối tuần để thu hút khách du lịch đi nghỉ ngắn ngày, có thể lựa chọn các sản phẩm đặc trưng phục vụ khách du lịch trăng mật…
Bảo vệ môi trường
Cần xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường; các dự án tham gia tại khu bảo tồn cần phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và được giám sát môi trường.
Phòng ngừa ô nhiễm tại nguồn, đây là biện pháp đề phòng hiện tượng ô nhiễm đối với khu du lịch, trong đó chú trọng chất thải, nước thải của các cơ quan, xí nghiệp và cộng đồng dân cư dọc sông.
Thực hiện giải pháp kỹ thuật môi trường cho các dự án quy hoạch: xây dựng các công trình kỹ thuật về thu gom, xử lý cho từng khu vực phát triển du lịch như trung tâm du lịch, khu vực hồ Bà Hào, các đảo và điểm tham quan; khuyến khích các dự án áp dụng các phương pháp, công nghệ ít tác động đến môi trường trong quá trình triển khai dự án. Phương án này nhằm phòng ngừa ô nhiễm tại nguồn trong quá trình thi công hoặc vận hành của dự án sau này.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc xử lý chất thải của các cơ sở sản xuất có chất thải. Khuyến khích các tổ chức cá nhân thực hiện tốt trong việc bảo vệ môi trường…
Ngoài ra, cần thực hiện các giải pháp về xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu khu du lịch; liên kết phát triển du lịch; nâng cao nhận thức cộng đồng… trong quá trình phát triển du lịch sinh thái tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai.
TS. Võ Quế – ThS. Bùi Thị TrangTạp chí Du lịch 6/2018
Bạn đang xem bài viết Bảo Tồn Văn Hóa Trong Phát Triển Du Lịch Miền Núi trên website Samthienha.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!