Cập nhật thông tin chi tiết về Bia Sagota Thành Thương Hiệu Đồ Uống Tiêu Biểu Của Du Lịch Việt Nam mới nhất trên website Samthienha.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã chọn bia SAGOTA của Công ty CP Tập đoàn bia Sài Gòn – Bình Tây được làm từ 100% lúa mạch nhập khẩu, không sử dụng chất bảo quản là sản phẩm phục vụ khách du lịch.
Đối với các nước có du lịch phát triển, đồ uống luôn được du khách quan tâm và nhiều đồ uống đã trở thành thương hiệu quốc gia như: Sake của Nhật Bản, rượu Soju của Hàn Quốc, bia Heineken của Hà Lan… Để phát triển nhanh, đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, việc xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam, trong đó có ẩm thực là rất cần thiết.
Để triển khai xây dựng thương hiệu đồ uống Việt Nam, phục vụ cho khách du lịch, Hiệp hội Du lịch Việt Nam vừa có văn bản đề nghị Hiệp hội Du lịch các tỉnh, TP triển khai việc sử dụng bia SAGOTA trong các hoạt động đối ngoại, các sự kiện du lịch tại địa phương và sử dụng logo SAGOTA trong các ấn phẩm quảng bá du lịch của mình, từng bước đưa bia SAGOTA trở thành thương hiệu đồ uống tiêu biểu của du lịch Việt Nam.
Vừa qua Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã chọn bia SAGOTA của Công ty CP bia Sài Gòn – Bình Tây, sản phẩm trong nước có chất lượng cao tương đương với bia Heineken, được làm từ 100% lúa mạch nhập khẩu, không sử dụng chất bảo quản là sản phẩm phục vụ khách du lịch.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam phối hợp với Công ty CP bia Sài Gòn – Bình Tây triển khai một chiến dịch tuyên truyền giới thiệu rộng rãi đồ uống này cho du khách du lịch quốc tế và nội địa với Slogan “SAGOTA – Bia của Du lịch Việt Nam”.
Theo nguồn: http://cand.com.vn/Xa-hoi/Bia-SAGOTA-thanh-thuong-hieu-do-uong-tieu-bieu-cua-du-lich-VN-221898/
Thương Hiệu Của Điểm Đến Du Lịch Việt Nam
(VnMedia)- Rất nhiều địa điểm trên thế giới trở thành cái tên hot với các tín đồ yêu thích xê dịch cũng bởi nơi đó xây dựng được thương hiệu riêng. Tại Việt Nam, vấn đề này lại chưa được chú trọng!
Để thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, trong quý II/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục tập trung triển khai công tác quản lý, chấn chỉnh tại các điểm đến; Xây dựng Đề án cung ứng nhà vệ sinh đạt chuẩn phục vụ khách du lịch; Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương hướng dẫn, kiểm tra cơ sở lưu trú du lịch; Đề xuất quản lý và định hướng phát triển đối với loại hình cơ sở lưu trú du lịch mới như Condotel, hình thức chia sẻ kỳ nghỉ (timeshare).
Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh nổi tiếng với du khách trong và ngoài nước.
Trong các báo cáo tổng kết, hoặc trong những định hướng để phát triển ngành du lịch, vấn đề đổi mới điểm đến, xây dựng những bản sắc riêng cho điểm đến được đề cập khá nhiều. Nhưng ý nghĩ thực sự của vấn đề này không phải ai cũng hiểu rõ.
Theo chúng tôi Nguyễn Thu Hạnh, Chủ tịch Liên hiệp Khoa học Phát triển Du lịch bền vững (STDe), thương hiệu du lịch thực chất là giá trị của sản phẩm du lịch ( SPDL) được thể hiện dưới dạng tinh hoa và cô đọng nhất, được nâng tầm để tạo ra các giá trị cảm xúc tinh thần cao đẹp mà con người luôn hướng tới.
Thương hiệu được thể hiện dưới nhiều hình thức. Có thể là một cái tên, một logo, một hình ảnh, một ký hiệu, một câu triết lý; một bài hát hay bản nhạc; cũng có khi nó là sự phối hợp của các yếu tố trên nhằm mục đích để tạo ra sự khác biệt về sản phẩm hay dịch vụ của một thành phố du lịch, một khu du lịch, một khách sạn so với các đối thủ cạnh tranh.
Để thương hiệu tạo ra được sức cạnh tranh lớn cần phải gắn liền thương hiệu với các nội dung, chương trình và kế hoạch phát triển SPDL một cách tổng thể, đồng bộ để giúp cho thương hiệu có sức lan tỏa lớn và thể hiện rõ cá tính đặc trưng của mình.
Có nhiều cách tiếp cận để tạo dựng thương hiệu cho một điểm đến. Đó có thể là cách tiếp cận với bề dày văn hoá lịch sử của khu vực; từ đặc điểm hình thái của cảnh quan thiên nhiên, quĩ di sản kiến trúc; từ những chức năng nổi bật về du lịch hay từ chính chất lượng của các loại hình dịch vụ du lịch. Tùy theo thế mạnh đặc thù của điểm đến mà lựa chọn cách tiếp cận phù hợp nhất để sáng tạo thương hiệu.
Hiện nay, một số địa phương trong cả nước đã dần hình thành thương hiệu du lịch của riêng mình để khai thác, phát triển ngành công nghiệp không khói này. Ví dụ như các tỉnh miền Trung phát triển mạnh về du lịch biển, Tây Bắc có phát triển về du lịch sinh thái, trải nghiệm; Quảng Ninh đẩy mạnh phát triển du lịch hang động…
Trên thực tế để khai thác du lịch Việt Nam đúng là có lợi thế to lớn về thiên nhiên, con người. Tuy nhiên, sự hấp dẫn cần có để kéo du khách đến và quay trở lại Việt Nam là điều chúng ta chưa làm được. Có một sự thật là gần như các địa phương ở Việt Nam đang phát triển na ná nhau. Ví dụ như địa phương có biển xây dựng mô hình tương đương nhau, những nơi có lợi thế về sinh thái thì cùng làm du lịch sinh thái…
Như trường hợp tại Măng Đen, Kon Tum mới đây, khi chính quyền địa phương và cả những người làm du lịch muốn hướng đến xây dựng và phát triển Măng Đen thành Đà Lạt thứ 2 ở Việt Nam. Sự nổi tiếng và hấp dẫn của Đà Lạt (Lâm Đồng) là điều không phải bàn cãi. Có điều, ở Việt Nam chắc chắn chỉ có một Đà Lạt, một Tam Đảo, một Sa Pa và chỉ một Măng Đen. Tại những vùng đất khác nhau, với không gian văn hóa khác nhau, con người khác nhau để thu hút du khách chắc chắn phải có sự xây dựng về thương hiệu điểm đến khác nhau.
Nói như chúng tôi Nguyễn Thu Hạnh, vai trò của những nhà hoạch định, qui hoạch và tư vấn đầu tư xây dựng du lịch là rất quan trọng trong việc khởi đầu khai sinh ra một không gian du lịch mới. Họ phải vừa có kiến thức và tâm hồn, vừa có tầm nhìn và bản lĩnh để thuyết phục các lãnh đạo địa phương, các chủ đầu tư và cộng đồng một phương án phát triển du lịch hiệu quả và bền vững nhất.
Và để có thương hiệu riêng với mỗi điểm đến, cụ thể tại Măng Đen, điều cần làm chính là: “Với không gian tự nhiên, nguyên thủy và thuần khiết như nơi đây, tất cả những gì mà con người chạm vào đều phải rất nhẹ nhàng, thận trọng và tinh tế. Muốn vậy, không gì khác chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thấu hiểu thiên nhiên”.
Trúc Dân
Xây Dựng Hình Ảnh Thương Hiệu Du Lịch Việt Nam
Làm khác biệt sản phẩm là chiến lược chung thứ hai. Làm khác biệt hình ảnh điểm đến mang lại sự bảo vệ nhất định trước các đối thủ cạnh tranh nhờ vào sự trung thành và ít nhạy cảm trước giá cả của khách hàng. Việt Nam đã lựa chọn thông điệp “Vietnam, timeless charm” và hình ảnh đóa hoa sen cách điệu. Vấn đề đặt ra là hình ảnh này cần phải cụ thể hóa như thế nào để tạo sự nhận biết rõ ràng và gây ấn tượng mạnh đối với công chúng?
Chiến lược tập trung hay chiến lược chuyên sâu là chiến lược chung thứ ba. Ở đây, điểm đến tập trung vào một nhóm người mua nhất định, một phân đoạn thị trường hay một loại hình du lịch. Trên thực tế, có hai dạng: tập trung vào sự khác biệt sản phẩm và tập trung vào chi phí. Với một chiến lược chuyên sâu, một điểm đến có thể trở thành “một con cá lớn trong một chiếc ao nhỏ”.
Theo đó, hình ảnh “vẻ đẹp bất tận” của Việt Nam phải được cụ thể hóa phù hợp với từng thị trường mục tiêu. Với khách du lịch Nga, đó sẽ là vẻ đẹp bất tận của các bãi biển, là sự hấp dẫn của ẩm thực thủy hải sản; với khách du lịch Pháp, đó sẽ là vẻ đẹp bất tận của các di sản văn hóa cũng như sự phong phú của văn hóa các dân tộc thiểu số; với khách du lịch Mỹ, đó sẽ là vẻ đẹp bất tận của cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, với sự đa dạng của các loại hình du lịch trải nghiệm, khám phá…
Để cụ thể hóa hình ảnh thương hiệu Du lịch Việt Nam, nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ “Giải pháp phát triển thương hiệu Du lịch Việt Nam” đã thực hiện 1.000 cuộc điều tra phỏng vấn với 400 khách du lịch quốc tế, 400 khách du lịch nội địa, 140 cộng đồng dân cư, 30 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 30 doanh nghiệp lữ hành và khách sạn tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và thu được một số kết quả cơ bản sau:
Thương hiệu Du lịch Việt Nam hiện nay đang được định vị tốt trong các yếu tố về: Con người Việt Nam; Cảnh quan thiên nhiên; Ẩm thực. Các địa danh được định vị tốt nhất trong thị trường là Hạ Long và Hà Nội. Trong đó, các giá trị liên quan đến con người Việt Nam: tính niềm nở, mến khách; văn hóa lối sống có định vị tốt nhưng không xác định rõ được địa bàn cụ thể; Ẩm thực có sự ghi nhận của thị trường nhưng không có tính khả thi do Thái Lan đã sử dụng chiến dịch định vị “Thailand – the kichen of the world” một thời gian dài cùng việc phát triển hệ thống nhà hàng, văn phòng đại diện ở các thị trường. Giá trị cảnh quan thiên nhiên phong phú, độc đáo mà biểu tượng là Di sản Thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long gắn với cảnh quan trên biển, phù hợp định hướng phát triển sản phẩm du lịch của chiến lược, quy hoạch giai đoạn tới, đã được định vị tốt ở thị trường.
+ Các yếu tố định vị chính
Bản chất thương hiệu – các yếu tố cốt lõi thương hiệu Du lịch Việt Nam định vị với các giá trị đa dạng sắc thái trong cả tự nhiên và văn hóa, tập trung chính vào các yếu tố sau: phong cảnh thiên nhiên đa dạng gắn với các dòng sản phẩm chính là du lịch biển, du lịch sinh thái; văn hóa đa sắc tộc, con người, lối sống, ẩm thực gắn với dòng sản phẩm du lịch văn hóa.
Các giá trị này là những giá trị thương hiệu chính của toàn bộ kiến trúc thương hiệu.
Tính cách thương hiệu được xác định làTính truyền thống; tính duyên dáng; tính mở – phát triển.
Xác lập cấu trúc thương hiệu du lịch quốc gia Việt Nam
Thương hiệu du lịch quốc gia cần được xác lập dựa trên các thương hiệu du lịch vùng, thương hiệu du lịch địa phương, thương hiệu các sản phẩm du lịch, thương hiệu các doanh nghiệp du lịch. Trong các điều kiện của Du lịch Việt Nam hiện nay, có thể thực hiện theo hai cấu trúc thương hiệu chính là:
Cấu trúc 1: Thương hiệu Du lịch Việt Nam là thương hiệu bao trùm với các giá trị cốt lõi thương hiệu tập trung vào các dòng sản phẩm chính và giá trị cảm nhận. Các thương hiệu nhánh gồm: thương hiệu sản phẩm du lịch biển, đảo; thương hiệu sản phẩm du lịch văn hóa; thương hiệu sản phẩm du lịch sinh thái; thương hiệu sản phẩm du lịch đô thị. Dưới các thương hiệu nhánh này là hệ thống thương hiệu các sản phẩm du lịch trong từng dòng sản phẩm. Cấu trúc này khá tương đồng với đề xuất của chuyên gia quốc tế tại Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án ESRT). Cấu trúc này có thế mạnh về định hướng thị trường. Dưới đây là phác thảo ý tưởng xây dựng hình ảnh nhận diện cho ba dòng sản phẩm chính của Du lịch Việt Nam:
Hình ảnh chủ đạo chiếm diện tích lớn, nổi bật giá trị cốt lõi của thương hiệu như sản phẩm du lịch biển là hình ảnh Hạ Long, sản phẩm du lịch văn hóa là sự đa dạng của văn hóa lối sống phong tục, sản phẩm du lịch sinh thái là thiên nhiên xanh.
Hình ảnh bổ trợ sử dụng nhiều hình ảnh cùng chủ điểm với kích thước nhỏ, sắp thành hình chữ S – bản đồ Việt Nam theo trục dọc, gắn kết với hình ảnh chủ đạo như:
Sản phẩm biển là các bãi tắm nghỉ dưỡng nổi bật tại Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phú Quốc…
Sản phẩm du lịch văn hóa là nụ cười của đồng bào dân tộc, thể hiện tính mở, thân thiện, đầy bản sắc nhưng vô cùng năng động.
Sản phẩm du lịch sinh thái là sắc xanh đa dạng từ Hà Giang, Sapa đến đồng bằng sông Hồng, rừng khộp Tây Nguyên và miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long.
Biểu tượng và slogan Timeless Charm gắn với slogan của từng sản phẩm nhánh. Kết cấu thông điệp được xây dựng với cấu trúc:
Vế 1: tính từ + danh từ thể hiện giá trị cốt lõi như Blue ocean với sản phẩm du lịch biển, Diversity culture với sản phẩm du lịch văn hóa, Green nature với sản phẩm du lịch sinh thái.
Vế 2: tính từ cảm xúc thể hiện giá trị thu nhận của khách hàng với Cool feeling của sản phẩm biển, Warm feeling của sản phẩm văn hóa và Fresh feeling của sản phẩm sinh thái.
Cấu trúc 2: Thương hiệu Du lịch Việt Nam là thương hiệu bao trùm với các giá trị cốt lõi thương hiệu tập trung vào các vùng. Các thương hiệu nhánh gồm:
Thương hiệu đồng bằng Sông Hồng và duyên hải Đông Bắc có hình ảnh chủ đạo: thắng cảnh Hạ Long và đô thị cổ Hà Nội; Giá trị cốt lõi: thắng cảnh và sự kỳ bí của kiến tạo thiên nhiên – văn hóa đặctrưng của nền văn minh lúa nước; Sản phẩm: du lịch biển, du lịch văn hóa.
Thương hiệu duyên hải miền Trung có hình ảnh chủ đạo: Khánh Hòa, Bình Thuận, Đà Nẵng; Giá trị cốt lõi: các bãi biển dài, chất lượng nghỉ dưỡng cao; Sản phẩm: du lịch biển, du lịch văn hóa.
Thương hiệu trung du, miền núi Bắc Bộ có hình ảnh chủ đạo: núi cao, đa dạng sắc thái dân tộc thiểu số; Giá trị cốt lõi: các hoạt động, tập tục của dân tộc vùng cao; Sản phẩm: du lịch văn hóa, du lịch sinh thái.
Thương hiệu Bắc Trung Bộ có hình ảnh chủ đạo: cố đô Huế; Giá trị cốt lõi: Các nét văn hóa cung đình giữa các di tích cố đô Huế; Sản phẩm: du lịch văn hóa.
Thương hiệu Tây Nguyên có hình ảnh chủ đạo: người dân tộc Ê Đê trên lưng voi giữa núi rừng; Giá trị cốt lõi: nét văn hóa đặc trưng của dân tộc giữa núi rừng Tây Nguyên; Sản phẩm: du lịch văn hóa, du lịch sinh thái.
Thương hiệu Đông Nam Bộ có hình ảnh chủ đạo: sức sống hiện đại của TP. Hồ Chí Minh và các hoạt động đô thị, MICE; Giá trị cốt lõi: sự năng động của đô thị hiện đại với dáng dấp đầy quyến rũ; Sản phẩm: du lịch MICE;
Thương hiệu đồng bằng sông Cửu Long có hình ảnh chủ đạo: miệt vườn sông nước, đa dạng sinh học; Giá trị cốt lõi: Cuộc sống sông nước trong sự đa dạng sinh học đặc thù trên hệ thống kênh rạch; Sản phẩm: du lịch văn hóa, du lịch sinh thái.
Dưới các thương hiệu nhánh này là hệ thống thương hiệu các địa phương, các sản phẩm du lịch, các doanh nghiệp du lịch ở từng vùng. So với cấu trúc 1 thì cấu trúc này có thế mạnh về tổ chức, quản lý.
Thực tế là, khi xây dựng thương hiệu điểm đến, việc cụ thể hóa các hình ảnh chủ đạo và giá trị cốt lõi trên phương tiện truyền thông là rất cần thiết nhưng một nội dung cũng hết sức quan trọng là khách du lịch biết đến thương hiệu khi họ đến điểm đến. Thêm nữa, thương hiệu phải là sản phẩm kết tinh của thực tế; không bao giờ là lời hứa về khả năng trong tương lai hoặc chỉ là những điều mong muốn. Vì vậy, thách thức đối với điểm đến là xác định những lĩnh vực có thể đã không đáp ứng được mong đợi của khách và tìm cách khắc phục. Không có sự liên kết giữa lời hứa thương hiệu như đã cam kết trong truyền thông, và trải nghiệm của khách tại điểm đến sẽ làm mất niềm tin vào thương hiệu điểm đến. Du khách sẽ cảm nhận được giá trị thương hiệu thông qua trải nghiệm của mình tại điểm đến. Mỗi lần tiếp xúc với con người và địa điểm trong quá trình lưu trú tại điểm đến, từ khi bước xuống sân bay, thông qua chất lượng nơi ở đến sự chào đón của những người dân địa phương sẽ quyết định nhận diện điểm đến. Những điểm chính mà khách tương tác với điểm đến có thể làm họ hài lòng hoặc mất tinh thần, thường được gọi là “các điểm tiếp xúc khách hàng” hoặc “những thời điểm thích hợp”. Bộ phận chuyên trách về quản lý thương hiệu phải nhận biết được khi nào “những thời điểm thích hợp” có thể xảy ra và bảo đảm khách sẽ có trải nghiệm tích cực ở từng điểm “tiếp xúc khách hàng”. Khi hình ảnh một đất nước càng tuyệt vời thì càng có nhiều người muốn đến thăm đất nước ấy, và tiếp tục mở rộng, lan truyền đến các khách hàng tương lai khác.
Khi bàn về “Thương hiệu quốc gia”, tác giả Simon Anholt cho rằng “Danh tiếng của các quốc gia cũng giống như thương hiệu của các công ty và sản phẩm”. Hình ảnh và thương hiệu của một đất nước ảnh hưởng rất nhiều đến hành vi và thái độ của các “đối tượng mục tiêu” như các nhà đầu tư nước ngoài, khách du lịch, người tiêu dùng, giới truyền thông, đối tác kinh doanh… Xây dựng thương hiệu vì thế là một nội dung vô cùng quan trọng giúp định vị hình ảnh về điểm đến trong tâm trí công chúng.
Tài liệu tham khảo:
Cliff Shultz, Cạnh tranh và điểm đến du lịch, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright 2007-2008
Porter, Michael E. (1980). Competitive Strategy: Techniques for Analyzing Industries and Competitors, New York: The Free Press.
Simon Anholt, Brand New Justice: How branding places and products can help the developing world, Butterworth-Heinemann, 2005 (2nd edition)
Đỗ Cẩm Thơ (Chủ trì) và cộng sự, Đề tài “Giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam”, Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, Hà Nội, 2013
ThS. Nguyễn Thu Thủy
(Nguồn: Tạp chí Du lịch)
Định Vị Thương Hiệu Du Lịch Văn Hóa Việt Nam
Khai thác tối đa thế mạnh
Theo Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu, trên thế giới, du lịch văn hóa từ lâu là dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như nước ta, thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Hiện tại, nhiều địa phương đã khai thác tốt thế mạnh này, coi di sản là cốt lõi để phát triển các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, du lịch tham quan, trải nghiệm…
Đến nay, cả nước đã có 28 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản thiên nhiên được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh là di sản thế giới. Trong đó có 8 di sản thiên nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh Hạ Long, Hoàng thành Thăng Long, quần thể danh thắng Tràng An, thành Nhà Hồ, Phong Nha – Kẻ Bàng, Cố đô Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn); 13 di sản văn hóa phi vật thể (nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ, lễ hội Gióng, ca trù, hát xoan, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh, nghi lễ kéo co, đờn ca tài tử Nam Bộ, bài chòi Trung Bộ, hát Then) và 7 di sản tư liệu (mộc bản Triều Nguyễn, châu bản Triều Nguyễn, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê, Mạc, hệ thống thơ văn trên kiến trúc Cung đình Huế, mộc bản trường học Phúc Giang, Hoàng hoa sứ trình đồ). Hà Nội là địa phương sở hữu nhiều danh hiệu được UNESCO trao tặng nhất cũng như sở hữu nhiều di tích nhất, với gần 6.000 di tích lịch sử, văn hóa…
Đánh giá tiềm năng, thế mạnh của các di sản trong phát triển du lịch Thủ đô, Phó Giám đốc phụ trách Sở Du lịch Hà Nội Trần Trung Hiếu, khẳng định, đây là nguồn lực to lớn để thành phố xây dựng các sản phẩm du lịch truyền thống cũng như sản phẩm du lịch mới, đáp ứng nhu cầu tham quan, trải nghiệm của cả khách nội địa và quốc tế. Thực tế, các di sản của Hà Nội hiện đang được khai thác tối đa, thậm chí đang được nhiều công ty lữ hành đẩy mạnh phát triển, tạo nên dòng sản phẩm du lịch nổi trội. Mới đây, Công ty Lữ hành Hanoitourist đã phối hợp với Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò và Hoàng thành Thăng Long xây dựng tour khám phá về đêm. Một số địa phương cũng tập trung phát huy giá trị di sản, di tích để trở thành điểm nhấn du lịch, như: Lễ hội Tản Viên Sơn Thánh (huyện Ba Vì), lễ hội Gióng (huyện Sóc Sơn và huyện Gia Lâm)…
Hướng tới xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia
Mặc dù là nguồn lực quan trọng để phát triển du lịch, nhưng việc khai thác các di sản vẫn tồn tại nhiều vấn đề. Theo Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, du lịch đại trà đã và đang có những tác động tiêu cực tới di sản. Nhiều nơi xảy ra hiện tượng khai thác thương mại hóa quá mức, xâm hại di sản, phục dựng sai quy cách…
Theo Giám đốc Công ty Lữ hành Hanoitourist Phùng Quang Thắng, không phải di sản nào cũng được các địa phương khai thác tốt phục vụ cho du lịch. Phần lớn các địa phương mới tập trung phát huy thế mạnh của di sản thiên nhiên, di sản văn hóa vật thể, còn văn hóa phi vật thể vẫn chưa khai thác tương xứng tiềm năng. Hiện, chỉ có một số địa phương làm tốt việc khai thác thế mạnh di sản văn hóa phi vật thể trong phát triển du lịch, là: Tỉnh Thừa Thiên – Huế phát huy di sản nhã nhạc cung đình, tỉnh Bắc Ninh với di sản quan họ… “Nhiều địa phương vẫn loay hoay trong việc bảo tồn, phát huy di sản, thiếu kế hoạch cụ thể trong việc đưa di sản vào cuộc sống”, ông Phùng Quang Thắng cho biết.
Còn theo Phó Giám đốc phụ trách Sở Du lịch Hà Nội Trần Trung Hiếu, thành phố sẽ đẩy mạnh việc quản lý di sản bằng áp dụng công nghệ, số hóa các dữ liệu, đồng thời khuyến khích các địa phương, đơn vị xây dựng sản phẩm du lịch mới dựa trên giá trị di sản vốn có; tổ chức nhiều hoạt động, sự kiện, tăng tính trải nghiệm để thu hút, hấp dẫn du khách hơn.
Bạn đang xem bài viết Bia Sagota Thành Thương Hiệu Đồ Uống Tiêu Biểu Của Du Lịch Việt Nam trên website Samthienha.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!