Cập nhật thông tin chi tiết về Du Lịch Xanh: Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Việt Nam mới nhất trên website Samthienha.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch. Với sự quan tâm, định hướng, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và cộng đồng, ngành Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Năm 2017, Việt Nam được UNWTO xếp hạng 6 trong số 10 quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng khách du lịch hàng đầu thế giới, đồng thời cũng được bình chọn là điểm đến du lịch hàng đầu châu Á.
Tại diễn đàn du lịch xanh, các diễn giả đi sâu vào việc chia sẻ những thuận lợi, khó khăn, kinh nghiệm phát triển du lịch xanh tại một số quốc gia, cũng như tại Việt Nam thông qua các tham luận như: Du lịch Xanh – Xu hướng thế giới và tiềm năng phát triển ở Việt Nam – Những vấn đề đặt ra (TS Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch); Quan điểm của Tây Ban Nha về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững gắn với du lịch xanh (Đại sứ Vương quốc Tây Ban Nha tại Việt Nam); Quan điểm của ADB đối với phát triển du lịch xanh ở Việt Nam (Ngân hàng phát triển Châu Á)…
Ở Việt Nam hiện cũng đang có nhiều doanh nghiệp phát triển du lịch xanh như: Xây dựng sản phẩm lưu trú xanh của tập đoàn Flamingo; Chia sẻ điển hình tốt của Câu lạc bộ du lịch cộng đồng CTC; Kinh nghiệm điều hành homestay của người dân tộc thiểu số…
Theo nhận định, phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh là cơ hội và cũng là thách thức, là mục tiêu quan trọng trong phát triển du lịch bền vững. Và để hướng tới du lịch xanh, Việt Nam cần vượt qua nhiều thách thức như xả thải khí nhà kính và tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước, quản lý rác thải, suy giảm đa dạng sinh học, quản lý hiệu quả di sản văn hóa… Minh chứng rõ nét nhất cho việc chuyển đổi theo hướng du lịch xanh ở Việt Nam là việc nhiều chứng nhận nhãn du lịch bền vững Bông sen xanh được trao cho các cơ sở lưu trú đảm bảo các tiêu chuẩn đặt ra đối với du lịch sinh thái.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện du lịch có trách nhiệm, hướng dẫn khách du lịch bảo vệ môi trường khi tham gia tour đi rừng, leo núi như tour thám hiểm hang động tại Phong Nha- Kẻ Bàng (Quảng Bình); xây dựng các sản phẩm du lịch làm sạch môi trường như tour vớt rác tại Hội An (Quảng Nam), Sơn Trà (Đà Nẵng)…
VITM Hà Nội 2019 có sự tham gia của 710 doanh nghiệp du lịch đến từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới (trong đó có hai quốc gia lần đầu tiên đăng ký tham gia là Cộng hòa Peru và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên), với số lượng 500 gian hàng.
Minh Anh (T/h)
Du Lịch Xanh Ở Việt Nam Cơ Hội Và Thách Thức
Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng nhận định, Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch xanh.
Tham dự diễn đàn có các đồng chí: Lê Quang Tùng, Thứ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch; Hà Văn Siêu, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch; Vũ Thế Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Du lịch Việt Nam; cùng đại sứ Vương quốc Tây Ban Nha, đại diện vụ Đông Nam Á – Ngân hàng phát triển châu Á; Hiệp hội Du lịch Việt Nam, Tập đoàn Flamingo, câu lạc bộ CTC…
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Lê Quang Tùng, Thứ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch cho biết, năm 2017, Việt Nam được UNWTO xếp hạng 6/10 quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng khách du lịch hàng đầu thế giới, được WTA bình chọn là điểm đến du lịch hàng đầu châu Á. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Lê Quang Tùng, Việt Nam đang chứng kiến nhiều bài học, kinh nghiệm cả trong môi trường tự nhiên và văn hóa, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển du lịch.
Theo Thứ trưởng Lê Quang Tùng, hiện nay tại Việt Nam, các chính sách chiến lược, quy hoạch định hướng phát triển du lịch của Đảng, Nhà nước đều hướng đến mục tiêu phát triển theo hướng chuyên nghiệp, bền vững; phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, Nguyễn Anh Tuấn, bên cạnh những tiềm năng phát triển du lịch xanh, Việt Nam cũng có nhiều vấn đề và cần giải pháp để vượt qua khó khăn. Đầu tiên là ở Việt Nam, nhận thức vể việc phát triển du lịch xanh chưa đầy đủ và chưa thấy được tầm quan trọng của phát triển du lịch xanh đối với phát triển bền vững của đất nước. Thứ hai, Chính phủ Việt Nam còn thiếu cơ chế, chính sách và hướng dẫn cụ thể về phát triển du lịch xanh. Thứ ba là sự thiếu thốn trong vấn đề tài chính và đầu tư vào các giải pháp xanh. Thứ tư, nhận thức của khách du lịch và việc kiểm soát tiêu thụ năng lượng của doanh nghiệp cũng là một thách thức cần phải vượt qua nếu muốn hướng tới du lịch xanh…
Hoạt động du lịch còn tồn tại một số vấn đề khiến du lịch xanh chưa được phát triển mạnh mẽ, cụ thể: Phát triển du lịch chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, hiệu suất sử dụng tài nguyên thấp; chưa gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu… Việc phát triển quá nhanh đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường du lịch. Tại nhiều khu, điểm du lịch xuất hiện các chất thải rắn, nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để, việc phát triển du lịch làm gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên. Đặc biệt, ngày càng có nhiều cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xây dựng trên các đảo không theo quy hoạch, làm tăng nguy cơ xói mòn đường bờ biển, dịch vụ du lịch xả trực tiếp vào môi trường, làm tăng mức độ hữu cơ nước biển ven bờ; khiến môi trường xuống cấp, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và phát triển bền vững của du lịch Việt Nam.
Ông Steven Schipani, đại diện Vụ Đông Nam Á, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) hỗ trợ đầu tư nhằm cải thiện du lịch Việt Nam.
Chia sẻ về những hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đối với ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua, Trưởng Ban Quản lý dự án, Cơ quan Đại diện Thường trú của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, Steven Schipani cho biết, trong giai đoạn từ 2003 – 2019, ADB đã đầu tư bốn dự án công trình trị giá khoảng 114 triệu USD, nhằm cải thiện hạ tầng du lịch với các con đường mới, trung tâm thông tin du lịch, xây dựng năng lực quản lý điểm đến và thúc đẩy hợp tác trong vùng…
Homestay A Chu ở bản Hua Tạt, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La – nơi lưu trú “xanh” thu hút khách du lịch đến nghỉ dưỡng.
Nhận thấy hướng phát triển của du lịch của Mộc Châu, Vân Hồ, từ năm 2013, A Chu mới biết đến cái nghề gọi là “nghề làm dịch vụ du lịch”. Và nhờ có sự tư vấn, cầm tay chỉ việc của thầy Dương Minh Bình và Công ty CBT Travel, đến năm 2014, anh đã dần hoàn thiện kiến thức của mình về dịch vụ đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Nghĩ lại giai đoạn đầu khởi nghiệp, A Chu gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn của tỉnh cấp còn ít, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, chưa có cầu bắc qua con suối lớn hay hệ thống nước thải cho bản và các hộ du lịch chưa hoàn thiện… nhưng chỉ hai năm sau, homestay của A Chu đã đón 1.300 lượt khách, năm 2017 đón 2.200 lượt, năm 2018 đạt 5.700 lượt khách, đạt 60%/năm. Homestay của A Chu mang lại cho gia đình anh vài trăm triệu đồng mỗi năm, tạo việc làm cho nhiều lao động. Cách làm của A Chu đã mở ra một hướng làm ăn mới cho bà con ở bản Hua Tạt. Đến nay, trong bản Hua Tạt đã có năm gia đình làm du lịch cộng đồng.
Ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã có những biện pháp chuyển đổi theo hướng du lịch xanh như: Mô hình tiết kiệm điện năng, tiết kiệm nước tại các cơ sở lưu trú. Nhiều doanh nghiệp đã hướng dẫn khách du lịch bảo vệ môi trường khi tham gia tour đi rừng, leo núi; xây dựng sản phẩm du lịch đặc biệt về làm sạch môi trường…
Đánh Gía Điểm Mạnh, Điểm Yếu, Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Du Lịch Việt Nam Bước Sang Thập Kỷ Tới 2011
Qua đánh giá thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995-2010 có thể thấy thực trạng ngành du lịch với những thành tựu rất đáng khích lệ nhưng tồn tại không ít những hạn chế, bất cập. Thực tế đó rõ ràng chưa làm hài lòng các cấp quản lý cũng như mỗi người dân Việt Nam hay với tư cách là khách du lịch. Thập kỷ tới với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng chuyển sang tập trung phát triển theo chiều sâu, có tính lựa chọn và ưu tiên trọng điểm, có chất lượng và thể hiện thương ở hiệu nổi bật, nhằm giá trị gia tăng cao, đảm bảo hiệu quả bền vững và tăng cường năng lực cạnh tranh. Bài viết nhìn thẳng vào thực tế, đưa ra những nhận định tổng quát về tình thế du lịch Việt Nam từ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cho tới thách thức để có thể hoạch định cho giai đoạn phát triển đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
1. Điểm mạnh
2. Điểm yếu
3. Cơ hội
– Diễn biến kinh tế, chính trị, an ninh thế giới có tác động mạnh hơn khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, các vùng lãnh thổ vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ song phương, đa phương ngày càng được mở rộng trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và những vấn đề chung hướng tới mục tiêu thiên niên kỷ. Các mối quan hệ Á-Âu, Mỹ- Châu Á, Nhật Bản-ASEAN và các nền kinh tế trong APEC ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực. – Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam với thế giới đang mở ra cơ hội thu hút đầu tư vốn và cộng nghệ vào Việt Nam nói chung và đầu tư du lịch nói riêng. Các nền kinh tế lớn, các tổ chức quốc tế đang tích cực hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, trong đó dòng đầu tư FDI và ODA cho phát triển du lịch ngày một tăng. – Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động và thu hút du lịch. Hợp tác trong khối ASEAN ngày càng tăng cường về chiều sâu. Hiệp hội du lịch Châu Á-Thái Bình Dương (PATA) hoạt động ngày càng có tiêu điểm hơn. Việt Nam đang trở quốc gia, điểm đến, thị trường mới nổi với những lợi thế nhất định trong hợp tác song phương và đa phương. Các dòng di chuyển vốn đầu tư và luồng khách du lịch đang có xu hướng dịch chuyển mạnh tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong đó Việt Nam được hình tượng như “ngôi sao” đang lên. – Xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ được ứng dụng ngày càng có hiệu qua và có sức lan tỏa vô cùng nhanh và rộng. Kinh nghiệm quản lý tiên tiến, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao làm thay đổi căn bản phương thức quan hệ kinh tế, đặc biệt công nghệ thông tin truyền thông được ứng dụng mạnh trong hoạt động du lịch. Việt Nam có cơ hội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng khi bắt kịp xu hướng và nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới ứng dụng trong phát triển du lịch. – Du lịch đã là một xu hướng phổ biến trên toàn cầu, du lịch quốc tế liên tục tăng trưởng; du lịch nội khối chiếm tỷ trọng lớn; du lịch khoảng cách xa có xu hướng tăng nhanh. Du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh nhất và lớn nhất trên bình diện thế giới, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của các quốc gia. Đặc biệt các nước đang phát triển, vùng sâu, vùng xa coi phát triển du lịch là công cụ xoá đói, giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ hội to lớn về xu thế thời đại mà Việt Nam có thể tận dụng để phát triển các loại hình du lịch mới, đa dạng tận dụng lợi thế về tài nguyên du lịch để nhanh chóng đạt mục tiêu phát triển, đặc biệt xu hướng du lịch cộng đồng đang nổi lên là cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế cho các vùng nghèo và quốc gia đang phát triển như Việt Nam. – Việt Nam về vị trí địa lý gần với thị trường khổng lồ Trung Quốc và các nước Đông bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc) với trên 1,5 tỷ người tiêu dùng du lịch có thu nhập cao và đang tăng mạnh. Cơ hội thu hút một phần thị trường khách du lịch đến từ các quốc gia này mở ra cho Du lịch Việt Nam một chân trời rộng lớn.
4. Thách thức
Tình Hình Du Lịch Việt Nam, Cơ Hội Thách Thức Trong Hội Nhập Quốc Tế
Ngành du lịch đang đi nốt những ngày cuối cùng của năm 2017 trong tâm thế hồ hởi với một thành tích gần như trong tầm tay: Đón 13 triệu du khách nước ngoài, tăng 30% so với năm ngoái. Chưa bao giờ Việt Nam đạt được con số cao kỷ lục như vậy. Du lịch Việt Nam đang trên con đường trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thực sự. Với tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế đến cũng như lượng khách đi du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ yêu thích của du khách quốc tế. Du lịch Việt Nam đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Một số chỉ tiêu về du lịch giai đoạn 2011-2016
Hệ thống vận tải du lịch, nhất là hàng không và đường bộ, đang được xã hội hóa mạnh và ngày càng kết nối rộng rãi với các điểm đến trong và ngoài nước, cả tầm ngắn, tầm trung và tầm dài. Việt Nam hiện có 52 hãng hàng không quốc tế đến từ 25 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 54 đường bay quốc tế, 48 đường bay nội địa kết nối. Việt Nam đã tham gia hàng loạt văn kiện pháp lý và dự án hợp tác quốc tế về du lịch. Du khách 22 quốc gia đã được miễn visa đến Việt Nam. Hình thành các điểm đến, sản phẩm du lịch Quá trình phát triển, các sản phẩm du lịch Việt Nam đã được thị trường nhìn nhận và đánh giá cao như: du lịch tham quan cảnh quan, di sản di tích, nghỉ dưỡng biển, núi, du lịch tâm linh, lễ hội, ẩm thực, du lịch thể thao mạo hiểm, nghỉ dưỡng sinh thái, du lịch MICE,.. Các sản phẩm tham quan cảnh quan như: Vịnh Hạ Long, cố đô Huế, Hội An, Mỹ Sơn,..Du lịch thể thao mạo hiểm như khám phá Sơn Đoòng, Phong Nha – Kẻ Bàng,…nghỉ dưỡng biến Phú Quốc, Nha Trang, Mũi Né,…được du khách trong nước và du khách quốc tế yêu thích…
Phát triển nguồn nhân lực du lịch còn nhiều bất cập Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch Việt Nam, tính đến hết năm 2015, ngành du lịch mới có khoảng hơn 2,2 triệu lao động với hơn 600.000 lao động trực tiếp. Điều này một mặt khẳng định còn khá nhiều tiềm năng để phát triển ngành này, nhưng mặt khác cũng bộc lộ lỗ hổng lớn về nhân lực của ngành. Thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao Theo thống kê của Tổng cục Du lịch mỗi năm, toàn ngành cần thêm gần 40.000 lao động; nhưng chỉ có khoảng 20.000 lao động tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo, trong số đó chỉ có khoảng 1.800 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp, 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch, còn lại là học sinh trung cấp, sơ cấp và đào tạo ngắn hạn dưới ba tháng. Các con số này cho thấy, nguồn nhân lực không những thiếu về số lượng mà còn thiếu trầm trọng đội ngũ được đào tạo bài bản. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực do các cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là nguồn nhân lực quản lý. Ngay cả khi tuyển đúng người học ngành du lịch, các doanh nghiệp vẫn mất thời gian, công sức đào tạo lại. Trong quá trình này, doanh nghiệp cũng vướng phải không ít khó khăn, khi mà người quản lý kiêm vai trò đào tạo giỏi không nhiều, thường hướng dẫn theo kinh nghiệm là chủ yếu, thiếu kỹ năng, kiến thức cụ thể. Ngoại ngữ, tin học được coi là chìa khóa để hội nhập, song đây lại là điểm yếu lớn của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam.
TTCI đánh giá năng lực cạnh tranh Du lịch và Lữ hành của 141 nền kinh tế, hệ thống tính điểm bao gồm 4 chỉ tiêu chính, 14 mục và 90 chỉ tiêu riêng biệt. Báo cáo xếp hạng năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Du lịch và Lữ hành của các quốc gia dựa trên 4 chỉ tiêu chính: Môi trường du lịch, Chính sách hỗ trợ phát triển du lịch, Cơ sở hạ tầng, Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Năm 2015, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 75/141 quốc gia trong bảng xếp hạng, tăng 5 bậc so với năm 2013. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam (dựa vào bảng xếp TTCI của WEF 2015) Trong khu vực, năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam được TTCI xếp hạng 7 trên 9 nước ASEAN (Brunei không xếp hạng), cụ thể như trong bảng sau:
Vài nét chính trong hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam
Hội nhập WTO Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức WTO sau khi Quốc hội phê chuẩn vào đầu tháng 01 năm 2007. Riêng trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam đã cam kết tất cả 11 ngành dịch vụ được phân loại theo Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS). Đối với dịch vụ du lịch, Việt Nam chỉ cam kết đối với các phân ngành dịch vụ đại lý du lịch và kinh doanh lữ hành du lịch, dịch vụ sắp xếp chỗ trong khách sạn, dịch vụ cung cấp thức ăn và đồ uống. Những cam kết này sẽ được áp dụng tự động cho các thành viên ASEAN. GATS quy định có 4 phương thức cung cấp dịch vụ, bao gồm: 1) cung cấp qua biên giới (dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một Thành viên này sang lãnh thổ của một Thành viên khác,); 2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ (người tiêu dùng của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một Thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ); 3) hiện diện thương mại (nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh v.v…trên lãnh thổ của một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ); 4) hiện diện thể nhân (thể nhân cung cấp dịch vụ của một Thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ). Trong các cam kết của mình với WTO, Việt Nam cam kết không hạn chế đối với phương thức 1 và 2. Đối với phương thức 3, Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ hạn chế vốn sở hữu nước ngoài đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức liên doanh, liên kết trong hoạt động đại lý du lịch, kinh doanh lữ hành du lịch. Tuy nhiên các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép cung cấp dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam (inbound) và lữ hành nội địa đối với khách vào du lịch Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam. Các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài không được phép thực hiện các dịch vụ gửi khách trong nước. Công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Đối với phương thức 4, Việt Nam vẫn không cho phép hướng dẫn viên du lịch nước ngoài được hành nghề tại Việt Nam. Như vậy, có thể nói Việt Nam đã mở cửa thị trường du lịch tương đối mạnh mẽ so với một số ngành dịch vụ khác như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Nhiều nghiên cứu cho thấy, chắc chắn cơ hội mang lại cho ngành Du lịch Việt Nam sau khi WTO sẽ nhiều hơn thách thức nếu các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp đánh giá lại năng lực, định vị lại và xây dựng chiến lược rõ ràng nhằm tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng một cách chủ động cùng với phát huy thế mạnh riêng vốn có của mình. Tham gia công đồng kinh tế ASEAN Hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam thời gian qua được triển khai theo hướng thúc đẩy ký kết và thực hiện các hiệp định thỏa thuận hợp tác cấp chính phủ, cấp ngành song phương và đa phương, tranh thủ hợp tác, hỗ trợ của các nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể và các cam kết mở cửa tự do hóa thương mại dịch vụ du lịch trong các khuôn khổ WTO, ASEAN, APEC, GMS…. Trong đó, ASEAN là một trong những khuôn khổ hợp tác mà Du lịch Việt Nam tham gia sâu rộng và có hiệu quả nhất. Du lịch Việt Nam bắt đầu tìm hiểu và tham gia các cơ chế hợp tác từ cuối những năm 1990, sau khi gia nhập ASEAN (1995). Việt Nam từng bước tham gia đầy đủ các hoạt động trong các nhóm/tiểu ban công tác du lịch từ đầu những năm 2000 và chủ động hội nhập từ cuối những năm 2000. Đối với các cam kết về thị trường, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các cam kết đối với các lĩnh vực khách sạn, dịch vụ xếp chỗ ở khách sạn, dịch vụ phục vụ ăn uống và kinh doanh lữ hành quốc tế. Năm 2009, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Du lịch và Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) – sự kiện lớn nhất trong năm của du lịch ASEAN. Đối với các lĩnh vực cụ thể, Việt Nam đã ký Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) (tại ATF 2009, tại Hà Nội) để làm cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch ASEAN và tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động trong khu vực. Du lịch Việt Nam đã chủ động đóng góp vào việc triển khai MRA-TP chung của ASEAN thông qua việc xây dựng các tài liệu hướng dẫn triển khai MRA-TP (2013). Du lịch Việt Nam đã tham gia xây dựng 130 sản phẩm du lịch chung để kết nối ít nhất 2 quốc gia trong ASEAN theo các nhóm chuyên đề như du lịch thiên nhiên, du lịch văn hóa và di sản, du lịch cộng đồng, du lịch đường biển và đường sông đồng thời tích cực triển khai Chiến lược marketing du lịch ASEAN 2011 – 2015 với tiêu đề “Đông Nam Á – cảm nhận sự ấm áp” tập trung vào khai thác các thị trường Trung Quốc và Ấn Độ, khách du lịch trải nghiệm và sáng tạo, khách du lịch khám phá, khách du lịch công vụ, khách du lịch lưu trú dài ngày và người cao tuổi, khách trong nội vùng ASEAN. Cùng với đó, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Trưởng nhóm Marketing và Truyền thông du lịch ASEAN (2013-2014), hiện đang là Phó Trưởng nhóm Chất lượng dịch vụ du lịch, điều phối phát triển sản phẩm du lịch đường sông và Dự án hỗ trợ kỹ thuật phát triển du lịch đường sông khu vực sông Mê Kông do UNWTO hỗ trợ ASEAN, điều phối triển khai Dự án xây dựng Hướng dẫn xây dựng và vận hành loại hình Boutique Hotel; nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ASEAN thông qua việc phối hợp cùng các quốc gia thành viên phát triển và áp dụng các bộ tiêu chuẩn chung trong ASEAN như tiêu chuẩn khách sạn xanh ASEAN, cơ sở lưu trú nhà dân ASEAN, nhà vệ sinh công cộng ASEAN, dịch vụ Spa ASEAN, tiêu chuẩn thành phố du lịch sạch ASEAN, tiêu chuẩn du lịch cộng đồng, hướng dẫn an ninh và an toàn du lịch ASEAN cho các khách sạn, khu nghỉ dưỡng và lộ trình du lịch ASEAN ứng phó với biến đổi khí hậu… Hàng năm, Du lịch Việt Nam tham gia Hội chợ Du lịch quốc tế TRAVEX bên lề Diễn đàn Du lịch ASEAN, tham gia và có đóng góp tích cực tại các phiên họp định kỳ và họp chuyên đề. Bên cạnh ATF năm 2009, Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức thành công cuộc họp chuyên đề về Marketing và Phát triển sản phẩm du lịch ASEAN (2013) và sẽ tiếp tục tổ chức phiên họp các nhóm công tác du lịch dự kiến vào tháng 4/2016. Bên cạnh các nội dung hợp tác du lịch ASEAN nói chung, Việt Nam còn tích cực và chủ động trong các cơ chế hợp tác du lịch tiểu vùng và giữa ASEAN với các nước, tổ chức đối tác. Các khuôn khổ hợp tác phổ biến là: Hợp tác kinh tế ACMECS (hợp tác kinh tế gồm 5 nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam); Hợp tác GMS (còn gọi là chương trình hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng, gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Vân Nam, tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc); Hợp tác CLMV (gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam); Hợp tác giữa ASEAN với các nước và tổ chức đối tác (ASEAN với 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc; ASEAN với Nga, ASEAN với Ấn Độ, ASEAN với Tổ chức Du lịch thế giới UNWTO, ASEAN với Ngân hàng phát triển châu Á ADB…), và hợp tác du lịch song phương để đóng góp vào cơ chế hợp tác du lịch trong ASEAN. Một số tác động của hội nhập AEC với du lịch Việt Nam Thuận lợi – Do hợp tác phát triển sản phẩm du lịch ASEAN sẽ góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt hiện nay – Tranh đủ được các nguồn khách nối tour trong khu vực để qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch khu vực ASEAN nói chung và khả năng kết nối khách giữa Việt Nam với các nước và ngược lại – Việc nới lỏng điều kiện tự do đầu tư và di chuyển lao động giữa 12 nước nội khối trong AEC sẽ giúp gia tăng nhu cầu đi lại tìm kiếm cơ hội đầu tư, việc làm và kết hợp du lịch, tức gia tăng dòng khách quốc tế và tăng cường mật độ, quy mô các loại hình du lịch- kinh doanh, du lịch- hội họp ngay trong nội khối AEC mà Việt Nam là một thành viên. Khó khăn – Hiện sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trong khu vực ASEAN không cao, sản phẩm dịch vụ du lịch của Việt Nam chưa tạo được điểm nhấn trong khu vực và thiếu sức hấp dẫn đặc biệt do còn đơn điệu và trùng lặp với các sản phẩm trong khu vực. – Việc thiếu nguồn lực và cơ chế tài chính còn nhiều vướng mắc đã ảnh hưởng chung tới hiệu quả của việc tổ chức triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch trong khu vực, khó theo kịp các đối thủ cạnh tranh trong khu vực – Tổ chức bộ máy và lực lượng thực hiện hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều bất cập. Thương hiệu du lịch Việt Nam còn đang trong quá trình hình thành, chưa tận dụng được hiệu quả của các cơ hội để xây dựng thương hiệu. – Về chất lượng nguồn nhân lực, nhân lực Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của hội nhập AEC. Lao động du lịch Việt Nam còn kém cạnh tranh so với các nước có ngành Du lịch phát triển trong khu vực. Chất lượng du lịch toàn ngành chưa cao, việc triển khai thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch ASEAN còn nhiều khó khăn vướng mắc. Ngoài hợp tác trong các khôn khổ hợp tác nêu trên, hợp tác trên các diễn đàn khác như APEC, ASEM và nhiều diễn đàn song phương và đa phương khác tạo ra nhiều cơ hội phát triển du lịch. Các quan điểm định hướng mới trong phát triển du lịch – Những năm gần đây, ngành du lịch đã chứng kiến nhiều dấu ấn đặc biệt trong xây dựng thể chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi phát triển du lịch. Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp ngày càng lớn cho nền kinh tế đất nước. Với định hướng quan trọng này, nhiều chính sách hỗ trợ mới được hình thành để khác phục khó khăn, khai thách tốt tiềm năng cuãng như phát huy lợi thế để ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong thời gian tới. Đáng chú ý nhất là Lần đầu tiên Bộ chính trị đã ban hành một nghị quyết về phát triển du lịch: nghị quyết là động lực manh mẽ thúc đẩy phát triển du lịch trong giai đoạn tới, có nhiều quan điểm mới chẳng hạn như: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, nhưng không nhất thiết địa phương nào cũng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển du lịch là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của toàn xã hội, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng; phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; tập trung nguồn lực quốc gia cho phát triển du lịch,… Ngoài ra, lần đâu tiên chính phủ tổ chức một hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch: với nhiều chỉ đạo quan trọng của thủ Tướng như: đổi mới tư duy về phát triển du lịch, tạo điều kiển thuận lợi cho thủ tục xuất nhập cảnh, thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển Du lịch, đẩy mạnh xúc tiến quảng bá,…Bên cạnh đó, Luật Du lịch sửa đổi được Quốc hội thông qua với nhiều nội dung mới, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc đảm bảo cho du lịch phát triển. Đồng thời, lần đầu tiên Quốc hội cho thí điểm cấp thị thực điện tử cho công dân của 40 quốc gia, thúc đẩy thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, thành lập nhiều Sở Du lịch tại các địa bàn trọng điểm về phát triển du lịch,..
Bạn đang xem bài viết Du Lịch Xanh: Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Việt Nam trên website Samthienha.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!