Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Lý Sơn mới nhất trên website Samthienha.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Phát triển sản phẩm du lịch Lý Sơn
Đảo Lý Sơn nơi được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh đẹp, hoang sơ và sự kiến tạo Lý Sơn là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp nổi tiếng, đang là điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy phát triển du lịch sẽ cần bảo đảm tính bền vững, cần phát triển sản phẩm riêng có của Lý Sơn, đồng thời bảo tồn di tích, di sản văn hóa. Phát triển du lịch phải mở ra sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân huyện đảo Lý Sơn.
Sản phẩm du lịch đặc thù ở Quảng Ngãi
Đảo nơi nàynơi được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh đẹp, hoang sơ và sự kiến tạo nơi đâylà nơi có nhiều thắng cảnh đẹp nổi tiếng, đang là điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy phát triển du lịch sẽ cần bảo đảm tính bền vững, cần phát triển sản phẩm riêng có của Lý Sơn, đồng thời bảo tồn di tích, di sản văn hóa. Phát triển du lịch phải mở ra sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân huyện đảo Lý Sơn.
Việc phát triển du lịch biển đảo trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, xã hội tại huyện đảo tiền tiêu tỉnh Quảng Ngãi. vùng này không chỉ có hành và tỏi. mảnh đất nàyđược hình thành từ núi lửa phun trào, có nhiều di sản thiên nhiên độc đáo và các di sản văn hóa gắn liền với quá trình bảo vệ đất nước của cha ông, nếu cụ thể hóa và có chiến lược phát triển phù hợp, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện đảo.
Tiềm năng và thực tế phát triển du lịch của đảo Lý Sơn thuộc một trong các địa phương dẫn đầu tỉnh và trở thành một điểm du lịch biển đảo hút khách tại miền Trung, từ sau khi nơi nàycó điện lưới quốc gia thì tăng trưởng đột biến, gần như theo hình thẳng đứng.
Các dịch vụ du lịch huyện đảo ngày càng phát triển, có đến 109 cơ sở dịch vụ lưu trú đang hoạt động, các cơ sở ăn uống tăng về cả số lượng và chất lượng. Mỗi ngày, hòn đảo đón tới 3.000 lượt du khách.
Trong 2 năm trở lại đây, đảo nơi đâybị “bê tông hóa” khi các khách sạn, nhà nghỉ và công trình cao tầng cấp tập mọc lên. Điều này khiến nhiều ý kiến lo ngại vùng này dần mất đi vẻ nguyên sơ, là điểm quyến rũ du khách, đồng thời xâm phạm đến cảnh quan, môi trường và các di sản thiên nhiên.
mảnh đất nàycó thế mạnh về tài nguyên du lịch địa chất – địa mạo, núi lửa, biển và văn hóa biển đảo. Thế mạnh vượt trội này là cơ sở để tạo nên sự khác biệt của du lịch đảo Lý Sơn đối với cả nước và quốc tế.
Vậy để chương trình phát triển bền vững, huyện đảo cần thận trọng trong việc đầu tư các công trình, nhất là giao thông, đồng thời phải làm quy hoạch chi tiết về phát triển du lịch. Bên cạnh việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa, Lý Sơn còn phát triển hình thức du lịch cộng đồng để người dân được hưởng lợi du lịch.
Phát triển sản phẩm du lịch Lý Sơn
Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Xanh
Du lịch xanh là loại hình du lịch bền vững, thân thiện với môi trường đáp ứng được các yêu cầu của du khách, đảm bảo môi trường tự nhiên, môi trường xã hội không bị xáo trộn. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng, sự phát triển du lịch xanh đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho đất nước cũng như cộng đồng người dân địa phương – nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và cảnh quan hấp dẫn.
Tuy nhiên, sự phát triển của bất kỳ loại hình du lịch nào cũng đều có những tác động tích cực và tiêu cực, du lịch xanh cũng không phải là ngoại lệ, nó ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp và gián tiếp đến môi trường xã hội, môi trường tự nhiên ở các dạng như sau:
Đối với môi trường xã hội, hoạt động của du lịch nói chung, du lịch xanh nói riêng sẽ phát sinh một số vấn đề như bán các sản phẩm chất lượng thấp với giá cao, hướng dẫn viên du lịch thiếu chuyên nghiệp (hướng dẫn viên du lịch xanh đòi hỏi phải có trình độ, sự hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, xã hội, đa dạng sinh học…), tạo tâm lý khó chịu cho du khách. Tổ chức các lễ hội truyền thống, biểu diễn dân gian mang tính thương mại, tính truyền thống của nền văn hóa địa phương dần dần bị mai một, mất bản sắc riêng. Tại một số làng nghề thủ công truyền thống thay vì đón tiếp khách với lòng hiếu khách của người dân Việt Nam là mục đích thương mại hóa ở mức cao từ du khách. Thiện cảm của du khách dành cho điểm đến giảm xuống dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng lượng du khách đến tham quan.
Đối với môi trường tự nhiên, khu di tích lịch sử, văn hóa tâm linh… Với mục đích thu hút du khách (du khách tham gia các chương trình du lịch xanh thường là các du khách có khả năng về kinh tế, có trình độ) nên một số nơi đầu tư không có quy hoạch, kiến trúc phù hợp làm phá vỡ cảnh quan tự nhiên của môi trường, môi sinh. Cùng với đó, các khu du lịch xây dựng dọc theo bãi biển, triền núi phá vỡ hệ đa dạng sinh học tổng thể. Việc trùng tu, phục dựng các khu văn hóa, sinh hoạt tâm linh (đình, chùa, miếu mạo…) trong các khu, tuyến, điểm du lịch xanh chưa được đầu tư, nghiên cứu tổng thể, quy hoạch mang tính lâu dài. Bên cạnh đó, rác thải sinh hoạt trong hoạt động du lịch chưa có khu xử lý cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các khu, tuyến, điểm du lịch.
Nguyên nhân của những sự ô nhiễm môi trường trên là do:
Việc triển khai những quy hoạch chi tiết mang tính tổng thể về phát triển du lịch xanh tại các khu, tuyến, điểm du lịch chưa có, hoặc nếu có, cũng là các đề án xã hội hóa chưa được thẩm định một cách khoa học, chi tiết, chưa có những công trình đánh giá tác động về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội mà các hoạt động du lịch phát sinh. Vì vậy, việc xử lý các vấn đề về môi trường, môi sinh phát sinh tiêu cực từ hoạt động du lịch mang tính chắp vá, tình thế.
Sự phối kết hợp triển khai trong quá trình bảo vệ môi trường du lịch xanh còn lỏng lẻo, hiệu quả không cao. Sự phối hợp trong việc triển khai quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường du lịch xanh không có sự ràng buộc và chịu trách nhiệm cụ thể của các Bộ, Ban, Ngành, lĩnh vực liênquan.
Việc đảm bảo an ninh, trật tự an toàn khu, tuyến, điểm du lịch, bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp, các kiến thức về văn hóa lễ hội, tâm linh, văn hóa giao tiếp ứng xử, đa dạng sinh học, giao thông đường xá thường được triển khai theo chuyên đề, phong trào không mang tính thường xuyên, liên tục. Việc bảo vệ môi trường du lịch nói chung, môi trường du lịch xanh nói riêng nhiều khi trú trọng ở tầm vĩ mô, làm theo phong trào.
Việc xã hội hóa trong bảo vệ môi trường du lịch xanh còn chậm, cần có sự đầu tư của nhà nước trong giai đoạn đầu, nhất là cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền phổ biến lợi ích, kiến thức về du lịch xanh, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, đa dạng sinh học chưa được quan tâm trú trọng.
Giải pháp quản lý phát triển du lịch xanh
Để có được môi trường tự nhiên trong lành, môi trường xã hội lành mạnh, ổn định, bảo vệ đa dạng sinh học, góp phần vào phát triển du lịch xanh cần có các giải pháp đồng bộ sau:
Một là, phải nhanh chóng xây dựng quy hoạch tổng thể, chi tiết những khu, tuyến, điểm du lịch xanh; tính đến các yếu tố về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, đa dạng sinh học, coi đó là một trong những yếu tố tiên quyết để phát triển du lịch xanh. Cần có sự nhận thức đầy đủ về sự tác động của hoạt động du lịch nói chung, du lịch xanh nói riêng đến môi trường tự nhiên, môi trường xã hội của từng khu, tuyến, điểm du lịch. Đồng thời, xác định được những nhân tố tích cực trong mối quan hệ qua lại giữa việc đẩy mạnh phát triển hoạt động du lịch xanh với vai trò của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội đối với việc khai thác và phát huy thế mạnh về du lịch của đất nước, của từng địa phương.
Hai là, tăng cường phối, kết hợp một cách có hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về mặt du lịch để giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển hoạt động du lịch xanh với việc đảm bảo môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Ba là, cần có sự phối hợp của cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân để ngày càng nhân rộng mô hình du lịch xanh.
Bốn là, đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn ngành, kiểm tra, giám sát để duy trì chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch; hình thành hệ thống kiểm định, đánh giá và quản lý, nhất là đối với các sản phẩm du lịch xanh để qua đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với tầng lớp lao động trực tiếp, gián tiếp, người dân tại các khu, tuyến, điểm du lịch về tầm quan trọng của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, đa dạng sinh học đối với sự phát triển du lịch bền vững. Ngăn chặn những tác động xấu do kiến trúc ngoại lai, nền văn hóa ngoại lai mang lại cho địa phương.
Sáu là, đẩy mạnh xã hội hóa có sự định hướng, điều chỉnh và giám sát của Nhà nước trong phát triển du lịch xanh. Đồng thời, đảm bảo phân phối lợi ích hợp lý, công bằng giữa các tổ chức du lịch và người dân. Từ đó, nâng cao mức độ tình nguyện tham gia xây dựng hình ảnh điểm đến du lịch thân thiện, an toàn, văn minh.
TS. Trịnh Đức HưngHọc viện Hành chính
(Nguồn: Tạp chí Du lịch)
Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Việt Nam
Theo nhận định của các chuyên gia du lịch, Việt Nam có hệ thống sản phẩm du lịch khá đa dạng và có nhiều điểm mạnh: đa dạng về sản phẩm tại điểm đến (du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch mạo hiểm, du lịch thành phố…); giàu giá trị truyền thống văn hóa với hệ thống di sản, di tích, lễ hội đặc sắc; có thế mạnh nổi trội về du lịch biển đảo; chất lượng dịch vụ, cơ sở lưu trú du lịch ngày càng được nâng cao; giá cả hợp lý; thị trường du lịch nội địa ổn định, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển du lịch bền vững; có thế mạnh trong việc liên kết phát triển các sản phẩm du lịch nội vùng và liên vùng…
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, sản phẩm Du lịch Việt Nam vẫn tồn tại nhiều điểm yếu như: sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu và trùng lặp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa được khai thác hiệu quả; chưa tạo ra được những sản phẩm du lịch chủ lực đặc thù, phù hợp cho từng phân khúc thị trường khách du lịch… Để khắc phục hạn chế này, các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp du lịch, du khách, cộng đồng dân cư… cần thực thi đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh, hạn chế giảm thiểu những điểm yếu, phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và thúc đẩy Du lịch Việt Nam phát triển bền vững.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện, Du lịch Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen, sự tham gia của Du lịch Việt Nam trong hoạt động của các tổ chức, cơ chế khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, UNWTO, PATA, GMS, Hành lang kinh tế Đông – Tây… ngày càng trở nên tích cực và hiệu quả. Đây là cơ hội để Việt Nam tiếp cận các thị trường du lịch quốc tế, tiếp nhận những cơ chế đào tạo nguồn nhân lực du lịch, từ đó đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam với thế giới cũng đang mở ra cơ hội thu hút đầu tư vốn và cộng nghệ vào Việt Nam nói chung và đầu tư du lịch nói riêng… Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ như: nguy cơ khủng khoảng kinh tế; diễn biến phức tạp an ninh, chính trị trên bình diện quốc tế; sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt… đòi hỏi Việt Nam phải nhạy bén, nắm bắt kịp thời và chính xác những xu hướng của du lịch thế giới; đồng thời, cần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch với lợi thế quốc gia và sự độc đáo của văn hóa dân tộc để khẳng định mình trong quá trình hội nhập du lịch quốc tế và cạnh tranh toàn cầu.
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định ưu tiên phát triển mạnh các sản phẩm du lịch theo ưu thế nổi trội về tài nguyên tự nhiên và văn hóa; mở rộng các loại hình du lịch mới (du thuyền, caravan, MICE, du lịch giáo dục, du lịch dưỡng bệnh, du lịch làm đẹp, du lịch ẩm thực); liên kết tạo sản phẩm du lịch vùng, liên kết ngành hàng không, đường sắt, tàu biển tạo sản phẩm đa dạng; phát triển sản phẩm du lịch theo đặc trưng 7 vùng lãnh thổ, bao gồm:
Vùng trung du, miền núi Bắc Bộ: du lịch văn hóa, sinh thái gắn với tìm hiểu bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc: du lịch danh lam thắng cảnh biển, du lịch văn hóa, du lịch đô thị, du lịch MICE.
Vùng Bắc Trung Bộ: tham quan tìm hiểu các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa – lịch sử và du lịch đường biên.
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ: du lịch nghỉ dưỡng biển đảo, tìm hiểu các di sản văn hóa thế giới, văn hóa biển và ẩm thực biển.
Vùng Tây Nguyên: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa.
Vùng Đông Nam Bộ: du lịch đô thị, du lịch MICE, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch nghỉ dưỡng và sinh thái biển, đảo.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: du lịch sinh thái, khai thác các giá trị văn hóa sông nước miệt vườn, nghỉ dưỡng và sinh thái biển, đảo, du lịch MICE.
Theo đó,cần có sự đầu tư nghiên cứu để tạo nên các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, có tính đặc thù rõ nét; ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch có thế mạnh như: du lịch biển, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng…; ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, hướng tới thu hút khách chi trả cao và lưu trú dài ngày…
Theo nhận định của Tổ chức Du lịch thế giới, trong những năm tới, du lịch vẫn là ngành có nhiều triển vọng. Xu thế dòng khách quốc tế sẽ tiếp tục chuyển dịch đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Đây sẽ là cơ hội để Du lịch Việt Nam bứt phá ngoạn mục về tăng trưởng khách; hình ảnh thương hiệu du lịch quốc gia, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và nguồn nhân lực… Để làm được điều đó, ngành Du lịch cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau: kiên quyết xử lý các vấn nạn đang tồn tại trong hoạt động kinh doanh du lịch, như làm ăn chộp giật, chặt chém khách, tiến tới chấm dứt một loạt hình ảnh xấu của môi trường du lịch; huy động tổng hợp nguồn lực và đẩy mạnh hơn nữa công tác quảng bá, xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp; thay đổi cách thức xây dựng sản phẩm du lịch để tạo ra các sản phẩm có chất lượng, giàu bản sắc, có sức cạnh tranh cao…
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
2. Nguyễn Trùng Khánh (2011), Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế;
3. chúng tôi Phạm Trung Lương (2015), Phát triển Du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, V iện Nghiên cứu Phát triển Du lịch;
4. Dwyer L, Forsyth P, Rao P (2000), The price competitiveness of travel and tourism: A comparison of 19 destinations, Tourism Management.
5. J. R. Brent Ritchie, Geoffrey I. Crouch (2003), The competitive destination: A sustainable tourism perspective, CABI.
6. Hassan SS (2000), Determinants of market competitiveness in an environmentally sustainable tourism industry, Journal of Travel.
ThS. Nguyễn Đức Tân
Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Làng Nghề
Tiếp sức phát triển những sản phẩm du lịch từ các làng nghề truyền thống để đem đến những trải nghiệm đầy cảm xúc cho du khách là thành quả lớn trong triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của TP.Hội An thời gian qua.
Du khách tham quan, khám phá làng rau Trà Quế. Ảnh: V.N
Sức hút, ấn tượng
Nép mình bên dòng sông Thu Bồn, làng gốm Thanh Hà (TP.Hội An) với hơn 500 năm hình thành và phát triển luôn thu hút khám phá, trải nghiệm của du khách.
Từ đôi bàn tay tài hoa của những nghệ nhân Thanh Hà chân chất, nhiều sản phẩm du lịch đã được nhào nặn khéo léo, biến đất sét thành tò he 12 con giáp, đèn trang trí, đèn sân vườn, bình cắm hoa. Những món ăn tạo nên thương hiệu ẩm thực của TP.Hội An như cao lầu, mỳ Quảng, cơm gà, tôm hữu, bánh vạc, hoành thánh… cũng là nguồn cảm hứng để các nghệ nhân làng gốm tạo tác thành bộ sản phẩm “Dấu ấn Hội An” đem đến sự trải nghiệm tinh tế cho du khách. Đi thăm làng rồi mua sắm nhiều sản phẩm gốm, anh Nguyễn Tất Tiến đến từ tỉnh Bắc Ninh trầm trồ: “Quê tôi có một làng gốm rất nổi tiếng là Phù Lãng với nét đặc trưng là màu men tự nhiên hay gọi là men da lươn chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ hòa quyện của đất và lửa. Còn các món gốm của các bạn qua bàn xoay đã cho thấy sự công phu và cầu kỳ”.
Chỉ 10 phút đi đường bộ hoặc chừng 15 phút đi đường sông, du khách từ Thanh Hà có thể thong thả sang làng mộc Kim Bồng (Cẩm Kim, TP.Hội An) để tận hưởng nhiều trải nghiệm thú vị khác. Nhìn đôi tay thoăn thoắt, điêu luyện tạo tác các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ của nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, nhiều du khách trầm trồ thán phục. Từ những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống đến các tác phẩm điêu khắc về người nông dân, cây tre, con đò, bến nước, cánh đồng, Chùa Cầu, các hội quán, du khách được trải nghiệm, hiểu hơn về đời sống tinh thần giản dị, mộc mạc, giàu cảm xúc của con người Kim Bồng nói riêng, Hội An nói chung. Ông Huỳnh Sướng – nghệ nhân ưu tú của làng mộc Kim Bồng chia sẻ: “Giữ gìn, phát triển làng nghề để tạo nên các sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách là niềm trăn trở, tâm huyết của chúng tôi. Mong UBND TP.Hội An có giải pháp để các tour du lịch đưa khách đến tham quan, tìm hiểu, mua sắm sản phẩm của làng nghề nhiều hơn”.
Tiếp sức làng nghề
Xã hội hóa các hoạt động quảng bá, bảo tồn, nâng cao giá trị các sản phẩm du lịch làng nghề đã được triển khai thường xuyên trên địa bàn TP.Hội An. Hàng năm, Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.Hội An đã phối hợp với Phòng Văn hóa – thông tin TP.Hội An tổ chức 15 lễ hội lớn, trong đó có 7 lễ hội dành cho các làng nghề truyền thống gồm lễ tế tổ làng mộc Kim Bồng, lễ tế tổ nghề gốm Thanh Hà, lễ cầu bông làng rau Trà Quế (xã Cẩm Hà), lễ cầu ngư tại xã đảo Tân Hiệp và phường Cửa Đại, lễ giỗ tổ nghề yến, ngày hội bắp nếp Cẩm Nam, ngày hội quật cảnh Cẩm Hà. Qua các lễ hội, công chúng, du khách trong và ngoài nước càng được dịp gắn bó sâu sắc hơn với các sản phẩm du lịch làng nghề cũng như các phẩm chất, giá trị cốt lõi chi phối đời sống tinh thần, chiều sâu văn hóa của đất và người Hội An. “Trong năm qua, khách mua vé tham quan, mua sắm tại các làng nghề truyền thống tăng cao; ở xã đảo Tân Hiệp là 395 nghìn lượt, gốm Thanh Hà là 539 nghìn lượt, rừng dừa Cẩm Thanh là 615 nghìn lượt…
Những con số ấn tượng là kết quả lớn trong triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của TP.Hội An” – ông Lê Hồng Lợi – Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.Hội An nói.
TP.Hội An đã đầu tư, nâng cấp bài bản các cơ sở hạ tầng phục vụ du khách ở các làng nghề truyền thống trong nhiều năm trở lại đây. Giữ chân du khách lưu trú, khám phá dài ngày qua đầu tư các mô hình homestay ở các làng nghề đi đôi với bảo vệ môi trường đã được thực hiện thiết thực. Ông Nguyễn Văn Sơn – Phó Chủ tịch UBND TP.Hội An cho biết, địa phương đang hoàn thiện đề án về phát triển các sản phẩm du lịch ở các làng nghề mộc Kim Bồng và rau Trà Quế với kỳ vọng sẽ tạo động lực lớn, tiếp sức các làng nghề phát triển mạnh, bền vững trong thời gian đến. “Chúng tôi luôn đề cao các yếu tố văn hóa và sinh thái để tạo điểm nhấn phát triển du lịch. Đề án tập trung vào các nội dung chính là xây dựng chương trình tham quan kích thích tìm hiểu, khám phá của du khách; tạo sản phẩm đặc sắc để du khách trải nghiệm thời gian dài; các dịch vụ tiện ích, phục vụ tối đa nhu cầu tham quan, mua sắm của du khách và dĩ nhiên công tác quảng bá sẽ đi đầu” – ông Sơn nói.
Ông Trần Tấn Dũng – Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.Hội An kỳ vọng, các kết quả về phát triển các sản phẩm du lịch của các làng nghề truyền thống trên địa bàn sẽ còn nhiều hơn trong thời gian đến. “Chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ quan chức năng, các địa phương, các doanh nghiệp để nâng cao thương hiệu, vị thế, chất lượng các sản phẩm du lịch của các làng nghề truyền thống làm nền tảng để triển khai mạnh mẽ cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”” – ông Dũng nói.
Bạn đang xem bài viết Phát Triển Sản Phẩm Du Lịch Lý Sơn trên website Samthienha.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!