Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Những Vấn Đề Đặt Ra Trong Công Tác Quản Lý Nhà Nước Về Đầu Tư Du Lịch Của Vĩnh Phúc mới nhất trên website Samthienha.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Vĩnh Phúc là “cái nôi” hình thành và phát triển lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam, quê hương của đình, chùa, lễ hội, làng nghề. Với bề dày lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên đã tạo cho Vĩnh Phúc tiềm năng to lớn phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa mà không phải địa phương nào cũng có được. Tỉnh Vĩnh Phúc luôn xác định ngành du lịch là ngành kinh tế động lực của tỉnh và thực tiễn trong những năm qua ngành du lịch tỉnh Vĩnh Phúc đạt được nhịp độ tăng trưởng khá, góp phần làm cho tỉ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh ngày càng tăng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của tỉnh ngày càng rõ nét. Song cũng như các ngành kinh tế khác, ngành du lịch Vĩnh Phúc vẫn là một ngành chậm phát triển, chưa thực sự khai thác tiềm năng lợi thế vốn có của địa phương; bởi một mặt chưa đủ điều kiện để khai thác, mặt khác quan trọng hơn là QLNN đối với ngành du lịch còn có những bất cập, chưa thực sự tạo được môi trường kinh tế, pháp luật, xã hội thuận lợi để phát triển du lịch. Sự hạn chế, kém năng động của các doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn tỉnh là hệ quả hay là 7 sản phẩm tất yếu của quá trình QLNN về quy hoạch và thực hiện quy hoạch ngành, về quan điểm định hướng phát triển, về tư duy và cơ chế, chính sách phát triển ngành, về đầu tư và thu hút đầu tư của tỉnh. Từ nhiều năm trước đây, Chính phủ đã xác định Vĩnh Phúc là một trong những trung tâm du lịch lớn của quốc gia, với điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí chiến lược của tỉnh và nhiều ưu đãi khác do thiên nhiên ban tặng cho tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng hiện nay ngành du lịch vẫn chưa thực sự phát huy được lợi thế này, thể hiện trên một số mặt chủ yếu như: Lượng du khách đến với Vĩnh Phúc chưa nhiều, số ngày lưu trú bình quân và công suất buồng phòng còn thấp, mức tiêu dùng của khách khi đến Vĩnh Phúc còn ở mức rất khiêm tốn, đóng góp của ngành du lịch cho địa phương chưa nhiều, chưa giải quyết được nhiều việc làm cho nhân dân, cơ cấu của ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh còn thấp. Nếu tình hình này kéo dài, ngành du lịch khó có thể trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.Vì vậy việc Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc là một yêu cầu cấp bách và thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức rõ việc đổi mới tư duy là vấn đề quan trọng hàng đầu, ngay từ đầu nhiệm kỳ 2011-2015, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 04/11/2011 về phát triển dịch vụ, du lịch tỉnh giai đoạn 2011- 2020 ; trong đó thẳng thắn đánh giá thực trạng của ngành và đưa ra quan điểm, mục tiêu chỉ đạo. Đặc biệt, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã đề ra 9 nhóm giải pháp sát thực, yêu cầu và giao các ban ngành, đầu mối chức năng triển khai thực hiện. Theo đó, các địa phương cụ thể hóa thành chương trình hành động, kế hoạch triển khai và tổ chức thực hiện đến cán bộ, đảng viên, phổ biến rộng rãi trong nhân dân; công khai các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, nhất là các dự án, đề án phát triển dịch vụ, du lịch. Gắn việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, tạo môi trường phát triển dịch vụ, du lịch theo hướng bền vững.
Đến nhiệm kỳ 2016-2020, nhận thấy sự phát triển của khu vực dịch vụ, du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh như: tỷ trọng dịch vụ du lịch trong cơ cấu kinh tế còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao, thiếu hấp dẫn; chưa có nhiều các tổ hợp dịch vụ chất lượng cao được đầu tư với quy mô lớn; chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn, nhất là tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế…. Một số nguyên nhân chính là do thiếu các chính sách hấp dẫn về phát triển dịch vụ du lịch, nhất là cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư vào các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhưng có tiềm năng lợi thế về dịch vụ du lịch; đầu tư ngân sách cho phát triển lĩnh vực này thấp; hoạt động xúc tiến đầu tư phát triển dịch vụ du lịch chưa hiệu quả. Vì vậy, ngày 01/9/2016 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU về khuyến khích đầu tư các dự án dịch vụ chất lượng cao tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế giai đoạn 2016 – 2021. Cùng với đó HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 45/2016/NQ-HĐND ngày 27/9/2016 về việc ban hành một số biện pháp hỗ trợ đặc thù cho các hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện quy hoạch xây dựng các Khu đô thị du lịch, dịch vụ chất lượng cao tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020. Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 01/9/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch số 1263/KH-UBND ngày 02/3/2017, trong đó nêu cụ thể 06 nội dung và giải pháp chủ yếu về quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, chính sách đặc thù về đất đai, công tác nâng cao đời sống người dân trong vùng dự án và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội và nâng cao sự nhận thức của người dân.
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ và Quyết định số 415/QĐ-BVHTTDL ngày 09/11/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về Chương trình hành động của Chính phủ và Kế hoạch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Tỉnh ủy Vĩnh Phúc triển khai Chương trình hành động số 41- CTr/TU ngày 31/12/2017 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị.
UBND tỉnh chỉ đạo các đơn vị thường xuyên tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 04/11/2011, về phát triển dịch vụ, du lịch tỉnh giai đoạn 2011- 2020 và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước về du lịch, dịch vụ được thực hiện chặt chẽ, bước đầu tạo được thương hiệu cho tỉnh về du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh tại các khu du lịch trọng điểm như Đại Lải, Tam Đảo, Tây Thiên, Vĩnh Yên. Việc quản lý quy hoạch, cấp phép xây dựng, quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, quản lý chất lượng công trình, quản lý nhà ở, phát triển khu đô thị, dịch vụ du lịch… trên địa bàn tỉnh đã dần từng bước đi vào nề nếp, thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định; chất lượng xây dựng công trình đảm bảo yêu cầu, phát huy hiệu quả sử dụng công trình, tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng. Nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch được tích cực triển khai dưới nhiều hình thức phong phú góp phần đưa hình ảnh đất và người Vĩnh Phúc đến với đông đảo bạn bè trong nước và quốc tế. Thông qua các hoạt động liên doanh liên kết với các tổ chức du lịch trong nước và quốc tế nên đã thu hút được một lượng khách lớn đến Vĩnh Phúc. Năm 2011, du lịch Vĩnh Phúc chỉ đón 1.7 triệu lượt khách, trong đó có 25 nghìn lượt khách quốc tế. Nhưng đến năm 2017, du lịch Vĩnh Phúc đã đón được 4.5 triệu lượt khách, tăng 2,5 lần so với năm 2011, trong đó có 33.500 lượt khách quốc tế. Doanh thu du lịch tăng trưởng ổn định qua các năm. Trong năm 2017, doanh thu du lịch đạt 1.420 tỷ đồng, tăng 10,33% so với năm 2016 và tăng đến 92,18% so với năm 2011.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đánh giá thực trạng phát triển du lịch Vĩnh Phúc thời gian qua còn bộc lộ nhiều tồn tại đó là:
– Nhận thức về vai trò của du lịch ở một số địa phương còn hạn chế, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; chưa có các giải pháp cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ du lịch dịch vụ phát triển.
– Các khu, điểm du lịch của Vĩnh Phúc phát triển chậm, thiếu những khu du lịch cao cấp, khu nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách, đặc biệt là khách quốc tế.
– Sản phẩm du lịch mờ nhạt, nghèo nàn chưa tạo được sức hấp dẫn đối với du khách, thiếu sự gắn kết du lịch với thương mại, chưa có các khu trung tâm mua sắm, khu vui chơi giải trí phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, những sản phẩm, dịch vụ du lịch đơn điệu và hiện đang giảm dần tính hấp dẫn, tính cạnh tranh so với các tỉnh, thành lân cận. Cơ sở vật chất và chất lượng phục vụ của các đơn vị kinh doanh du lịch dịch vụ còn hạn chế nên lượng khách lưu trú thường chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với con số khách du lịch đến với tỉnh.
– Nguồn nhân lực du lịch hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Đang thiếu nhiều nhân lực hướng dẫn viên tại các khu, điểm du lịch, quản lý doanh nghiệp, quản trị kinh doanh, chuyên gia hoạch định chính sách, nghiên cứu chiến lược phát triển Ngành. Tỷ lệ lao động chuyển từ doanh nghiệp du lịch này sang doanh nghiệp du lịch khác hoặc ra khỏi ngành có xu hướng tăng.
– Hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Cơ sở lưu trú du lịch của Vĩnh Phúc còn nhỏ lẻ, manh mún, dịch vụ ít, chất lượng chưa cao, công suất sử dụng buồng bình quân chỉ đạt 40%/năm. Do vậy, chưa đảm bảo cho du lịch phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế.
– Kinh phí dành cho phát triển khu, điểm du lịch còn hạn chế nên việc hoạch định chính sách phát triển cũng như chính sách hỗ trợ nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân của hạn chế, bất cập đó là:
– Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành chức năng trong việc quản lý đầu tư; chưa khuyến khích, động viên định hướng các thành phần kinh tế phát triển kinh tế du lịch.
– Cơ chế, chính sách thu hút đầu tư của tỉnh chú trọng đến phát triển công nghiệp. Chưa ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư cho phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
– Nhận thức về phát triển du lịch chưa có sự thống nhất trong các cấp, các ngành, các doanh nghiệp.
– Việc phân cấp quản lý đô thị, quản lý quy hoạch và quản lý xây dựng cho cấp huyện còn nhiều bất cập. Mô hình tổ chức quản lý khu du lịch vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và quản lý khu du lịch theo tư duy hiện đại.
– Chính phủ vẫn chưa có các quy định cụ thể về đầu tư xây dựng Khu, điểm du lịch như đã quy định cho các Khu kinh tế, Khu, cụm công nghiệp, Khu công nghệ chúng tôi vậy, gây ra sự lúng túng trong công tác thu hút đầu tư phát triển hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Trước thực tế trên, với mong muốn nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về du lịch, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:
– Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, triển khai thực hiện Quy chế về quản lý du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tổ chức tuyên truyền vận động cán bộ, quần chúng nhân dân, nâng cao nhận thức, tích cực tham gia phong trào ứng xử văn minh, giữ gìn trật tự trị an, vệ sinh môi trường, không tham gia hoặc tiếp tay cho các hành vi xâm hại đến du khách tại các khu, điểm tham quan du lịch.
– Ba là, nâng cao vai trò quản lý của chính quyền địa phương trong việc quản lý các hoạt động du lịch trên địa bàn đã được phân cấp quản lý. Có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh du lịch, gây phiền hà cho du khách, làm ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch địa phương.
– Bốn là, xây dựng sản phẩm, dịch vụ du lịch có chất lượng, xây dựng chương trình tham quan du lịch với sản phẩm đặc trưng địa phương và có chất lượng. Niêm yết công khai giá bán hàng và dịch vụ; nâng cao chất lượng phục vụ, chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, phong cách ứng xử, giao tiếp văn minh, mến khách cho đội ngũ nhân viên phục vụ, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch.
– Năm là, phát huy vai trò của Hiệp hội Du lịch Vĩnh Phúc, xây dựng mối liên kết, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong công tác giữ gìn an ninh trật tự, bảo đảm an toàn cho du khách, chống chèo kéo, ép giá khách du lịch, nhất là thống nhất giá các chương trình tour nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, văn minh, góp phần phát triển ngành Du lịch Vĩnh Phúc .
Hy vọng rằng, sau cuộc gặp gỡ trao đổi này, chúng ta sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm, giải pháp để nâng cao vai trò quản lý nhà nước tại các địa phương trong lĩnh vực du lịch.
Đồng chí Dương Quang Ứng – PGĐ Sở VHTTDL
Bài 2: Thực Trạng Phát Triển Kinh Tế Biển Và Những Vấn Đề Đặt Ra
Động lực tăng trưởng từ các địa phương ven biển
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 10 năm qua (2008-2017), tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của các địa phương ven biển tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, cao hơn so với nhịp tăng trưởng chung của cả nước (cả nước tăng 6%/năm). Năm 2017, GRDP của các địa phương ven biển chiếm 60,5% GDP cả nước, GRDP bình quân đầu người đạt 64,9 triệu đồng, cao hơn so với mức bình quân cả nước đạt 53,5 triệu đồng. Trong đó, một số địa phương có mức GRDP bình quân đầu người đạt cao như Bà Rịa-Vũng Tàu (đạt hơn 225 triệu đồng), Quảng Ninh (đạt hơn 90 triệu đồng), Đà Nẵng (đạt hơn 70 triệu đồng).
Một số ngành kinh tế biển được xác định ưu tiên có bước phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, như: Du lịch biển, đảo; khai thác và chế biến hải sản; phát triển các khu kinh tế ven biển; các hệ thống giao thông của các địa phương ven biển (đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, cảng cá…) đều được phát triển.
Tàu cá của ngư dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị vào bờ sau chuyến đánh bắt trên biển. Ảnh: TTXVN
Các địa phương ven biển đều tích cực thu hút đầu tư xây dựng và phát triển nhiều khu, điểm du lịch ven biển mới và hiện đại, thu hút số lượng lớn khách du lịch trong nước, quốc tế. Khá nhiều dự án đầu tư khu du lịch biển, đảo cao cấp, khu du lịch thể thao, giải trí ven biển có số vốn từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD. Ven biển cả nước phát triển được chuỗi các khu du lịch, khu nghỉ dưỡng hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế (4-5 sao) ở hầu hết các địa phương ven biển. Phát triển một số trung tâm du lịch biển có tầm trong khu vực, như: Vân Đồn, Đà Nẵng, Phan Thiết, Phú Quốc… thu hút hàng triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm. Du lịch biển, đảo hiện đóng góp khoảng 70% tổng doanh thu hằng năm của ngành du lịch cả nước.
Các chính sách về hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản, đóng tàu đánh bắt xa bờ có tác dụng tích cực. Sản lượng khai thác hải sản hằng năm tăng nhanh và liên tục, từ năm 2006 đến 2017, sản lượng tăng từ 1,8 triệu tấn lên 3,2 triệu tấn. Các doanh nghiệp chế biến thủy, hải sản tăng lên nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Đến nay, có hơn 620 cơ sở chế biến thủy, hải sản quy mô công nghiệp, trong đó có 415 nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào những thị trường yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm (Nhật Bản, Mỹ, EU…).
Hiện cả nước có 17 khu kinh tế (KKT) ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển gần 845.000ha. Đến cuối năm 2017, các KKT ven biển đã thu hút hơn 390 dự án đầu tư nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký đạt 45,5 tỷ USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 26,5 tỷ USD và 1.240 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt 805.000 tỷ đồng, vốn đầu tư thực hiện đạt 323,6 nghìn tỷ đồng. Một số KKT như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai, Dung Quất… thu hút được những dự án đầu tư lớn, có vai trò quan trọng tăng cường năng lực sản xuất ngành công nghiệp cả nước, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy nhiều ngành khác phát triển. Trong năm 2017, các KTT ven biển đạt tổng doanh thu khoảng 14,3 tỷ USD, xuất khẩu hơn 7,2 tỷ USD, đóng góp vào ngân sách khoảng 40.000 tỷ đồng.
Hệ thống cảng biển được xây dựng phát triển cả về quy mô, số lượng và mật độ tại các vùng ven biển. Đến nay, cả nước có 45 cảng biển gồm 3 cảng cửa ngõ quốc tế, trung chuyển quốc tế (Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu và Vân Phong), 11 cảng đầu mối khu vực, 17 cảng tổng hợp địa phương, ngoài ra có hệ thống cảng chuyên dùng cho các khu công nghiệp tập trung, KKT; tổng số có 241 bến cảng, 18 khu neo đậu, chuyển tải, tổng công suất thiết kế đạt 534,7 triệu tấn/năm; có hơn 10 cảng có thể tiếp nhận tàu trọng tải lớn 20.000DWT đến hơn 40.000DWT. Đang xây dựng cảng biển, cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng) có khả năng tiếp nhận tàu container, tàu hàng tổng hợp đến 50.000DWT đầy tải và tàu 100.000DWT giảm tải.
Đời sống, mức sống của nhân dân vùng ven biển và trên các đảo được cải thiện, nâng lên rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Từ năm 2006 đến 2016, thu nhập bình quân đầu người/tháng ở các địa phương ven biển tăng lên gấp 4,8 lần; năm 2016 đạt 3,035 triệu đồng/người/tháng (mức trung bình cả nước là 3,049 triệu đồng/người/tháng). Giai đoạn 2011-2016, các tỉnh, thành phố ven biển đã giải quyết việc làm cho khoảng 4,67 triệu lao động, chiếm 49,73% tổng số việc làm tạo ra của cả nước.
Những tồn tại, hạn chế trong việc phát triển kinh tế biển
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên biển và ven biển ở nhiều nơi còn lãng phí, kém hiệu quả, đặc biệt về khai thác, sử dụng đất ven bờ biển, mặt nước biển ven bờ. Việc phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ tài nguyên biển, bảo tồn môi trường sinh thái biển và vùng bờ còn nhiều hạn chế. Khai thác tiềm năng nguồn lợi thủy sản chưa hiệu quả cao, thiếu bền vững, chưa kiểm soát được hạn mức cấp phép khai thác hải sản cho từng vùng biển dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt dần hải sản ở vùng ven bờ. Các hệ sinh thái ven bờ biển (rừng ngập mặn, vùng triều, rạn san hô…) có xu hướng suy giảm nghiêm trọng do tác động của hoạt động kinh tế, xây dựng.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ, vùng cửa sông, vũng, vịnh do hoạt động kinh tế và đời sống (sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản, hoạt động cảng biển, nước thải từ đô thị ven biển,…) xảy ra ở nhiều nơi chưa giải quyết được. Việc thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đồng bộ, hiệu quả hạn chế.
Một số ngành kinh tế biển được xác định ưu tiên tạo bước đột phá nhưng phát triển chậm, chưa tương xứng với điều kiện tiềm năng. Kinh tế cảng biển phát triển còn chậm và thiếu hiệu quả. Hệ thống cảng biển được đầu tư xây dựng phát triển khá nhanh về cơ sở hạ tầng, tổng công suất thiết kế các cảng trong cả nước đã đạt 534,7 triệu tấn/năm. Song, mô hình quản lý cảng chưa được đổi mới, dịch vụ cảng và các dịch vụ hậu cần sau cảng phát triển chậm, chưa đồng bộ, nhiều cảng chưa khai thác hết công suất. Khối lượng hàng hóa hằng năm thông qua các cảng biển chủ yếu (do Trung ương quản lý) tăng chậm, thời kỳ 2007-2017 bình quân chỉ đạt 5,4%/năm.
Vận tải biển mức độ hiện đại hóa và sức cạnh tranh thấp, nhất là vận tải viễn dương. Đội tàu biển phần lớn là tàu đã cũ, chủ yếu hoạt động trên các tuyến gần. Cơ cấu đội tàu chưa hợp lý, dư thừa tàu chở hàng bách hóa, hàng rời, thiếu tàu container, tàu chuyên dùng. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đường biển từ năm 2007 đến 2016 chỉ tăng bình quân ở mức 3,6%/năm.
Năng lực đóng và sửa chữa tàu biển nâng lên chậm, hiện có hơn 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu, năng lực đóng mới tàu biển đạt khoảng 1.000.000DWT năm. Một số ít nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, nhà máy có hợp đồng gia công cho nước ngoài duy trì hoạt động có hiệu quả, đóng được một số loại tàu hàng, tàu chuyên dụng (tàu container, tàu hàng rời, tàu vận chuyển dầu, tàu cứu hộ…), còn lại chủ yếu đóng, sửa tàu nhỏ hoạt động ven bờ, doanh thu và hiệu quả thấp.
Khai thác và chế biến dầu khí gặp khó khăn trong điều kiện chịu tác động của giá dầu thế giới giảm sút những năm gần đây, cùng với sản lượng khai thác sụt giảm (do trữ lượng đã được tìm thấy giảm) cùng những vấn đề an ninh trên Biển Đông nên phát triển chưa mạnh theo yêu cầu đề ra. Tổng sản lượng khai thác dầu giai đoạn 2007-2017 đạt khoảng 167,9 triệu tấn (trung bình hằng năm 15,2 triệu tấn), khai thác khí đạt 101,7 tỷ m3 (trung bình hằng năm 9,2 tỷ m3). Năng lực sản xuất về lọc hóa dầu và chế biến các sản phẩm từ lọc hóa dầu còn rất hạn chế.
Kết cấu hạ tầng biển còn chưa đồng bộ, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các trung tâm kinh tế biển mạnh. Kết cấu hạ tầng ven biển được đầu tư phát triển tương đối nhiều nhưng dàn trải, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại, vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế (cảng biển, trung tâm logistics…) để tạo đột phá mạnh cho phát triển một số trung tâm kinh tế biển ở tầm quốc gia, khu vực. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển nhanh một số trung tâm kinh tế biển, KKT ven biển có sức cạnh tranh cao trong khu vực còn chậm, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư.
Hệ thống cảng biển được xây dựng mở rộng nhanh nhưng còn thiếu đồng bộ với nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối thuận tiện cảng với đường bộ quốc gia, với các trung tâm kinh tế trong nội địa.
Mức sống của dân cư vùng biển được cải thiện đáng kể nhưng còn chênh lệch lớn giữa các địa bàn, đời sống người dân vùng bãi ngang ven biển và hải đảo còn nhiều khó khăn. Đến năm 2017, cả nước vẫn còn 291 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thuộc 23/28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển, chiếm 62% tổng số xã có biển trong cả nước.
Giải mã nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
PGS, TS Vũ Thanh Ca, cán bộ Viện Chiến lược chính sách tài nguyên-môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, các khó khăn thách thức trong việc phát triển kinh tế biển của Việt Nam hiện nay chủ yếu là do chủ quan. Nguyên nhân lớn nhất là do chưa có quy hoạch sử dụng biển cũng như quy hoạch tổng thể sử dụng vùng bờ biển theo quan điểm quản lý tổng hợp. Điều đó dẫn tới nguồn thủy sản bị đánh bắt cạn kiệt, các hệ sinh thái biển quan trọng, như: Rừng ngập mặn, hệ rạn san hô, thảm thực vật biển bị phá hoại và suy thoái nghiêm trọng. Nhận thức của ngư dân còn thấp nên còn đánh bắt cá trái phép, thậm chí đánh bắt hủy diệt tại các vùng biển Việt Nam và vùng biển nước ngoài, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
PGS, TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nhận định: Mấy chục tỉnh sát biển đua nhau làm cảng biển, đã xây dựng gần một trăm cảng biển. Song, động lực “vươn ra biển lớn” của phong trào rầm rộ này-rầm rộ đến mức đã trở thành “hội chứng”-thật sự không rõ ràng, bị chi phối bởi tư duy lợi ích dự án cục bộ thay vì một mục tiêu đua tranh phát triển lành mạnh và có tầm nhìn xa.
Theo lý giải của một số chuyên gia kinh tế thì nguyên nhân quan trọng dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong phát triển kinh tế biển của chúng ta là do hệ thống chính sách, pháp luật phát triển kinh tế biển chưa đồng bộ, chưa tạo được sức mạnh để điều chỉnh các hoạt động phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, nhận thức về phát triển một cách hiệu quả, bền vững kinh tế biển của cán bộ và nhân dân chưa cao, khái niệm về nền kinh tế biển xanh hầu như chưa được hiểu và áp dụng thống nhất ở Việt Nam. Nhiều địa phương mới chú trọng cho đầu tư kết cấu hạ tầng, thu hút dự án đầu tư, chưa thật sự coi trọng đúng mức đến hiệu quả tổng hợp, lâu dài trong khai thác, sử dụng nguồn lợi từ biển, phát triển kinh tế đi đôi với bảo tồn, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển. Thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích đủ mạnh, có sức hấp dẫn thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, trong điều kiện đầu tư vào các ngành nghề hoạt động trên biển có mức độ rủi ro cao về thời tiết, thiên tai, an toàn, đầu tư xây dựng công trình hạ tầng biển thường có suất đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm.
Việc đào tạo, dạy nghề cho lao động vùng biển, lao động trên biển và chuyển giao, ứng dụng tiến bộ công nghệ trong nhiều ngành nghề kinh tế biển còn những hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Hoạt động chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế biển còn yếu, chủ yếu mới tập trung trong số ít lĩnh vực như nuôi trồng thủy, hải sản, nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển. Chưa có chương trình phát triển và chuyển giao ứng dụng công nghệ biển dài hạn phục vụ cho các ngành kinh tế biển ưu tiên.
Nguồn lực tài chính chưa bảo đảm cho đầu tư kết cấu hạ tầng biển, thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội vùng biển ở các địa phương. Bên cạnh đó, còn tâm lý trông chờ vào nguồn vốn Nhà nước cho đầu tư thực hiện nhiệm vụ, một số ngành, địa phương thiếu tinh thần chủ động, sáng tạo đổi mới cơ chế, chính sách quản lý để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn lực cho thực hiện Chiến lược biển.
Việc nhìn rõ những thành tựu, đồng thời chỉ ra những điểm hạn chế của việc phát triển kinh tế biển thời gian qua giúp chúng ta sẽ có những giải pháp đúng đắn, kịp thời để tận dụng tốt hơn các ưu thế từ biển của đất nước.
ĐỖ PHÚ THỌ – HỒ QUANG PHƯƠNG
(còn nữa)
Du Lịch Ẩm Thực Và Vấn Đề Đặt Ra Cho “Kinh Đô Ẩm Thực”
Du lịch ẩm thực – xu hướng mới của ngành “công nghiệp không khói”.
Ẩm thực Huế không chỉ ngon mà còn đẹp mắt
Ẩm thực từ lâu đã là một phần không thể thiếu của du lịch. Mối liên hệ mật thiết giữa ẩm thực và du lịch thể hiện rất rõ từ khi du lịch bùng nổ trên toàn cầu. Tuy nhiên kể từ những năm 2000, ẩm thực không chỉ còn là một yếu tố phụ trợ hay dịch vụ đi kèm mà đã được nâng tầm thành một loại hình du lịch đặc sắc – Du lịch ẩm thực (DLAT). Loại hình này đã được nhiều điểm đến khai thác thành công và trở thành một trong những xu hướng du lịch thu hút nhất hiện nay.
Theo Báo cáo toàn cầu lần thứ 2 về DLAT năm 2017 của Tổ chức Du lịch thế giới, 87% tổ chức, địa phương tham gia điều tra, khảo sát xác định DLAT là yếu tố chiến lược, định hình cho thương hiệu và hình ảnh đối với điểm đến; hầu hết khẳng định loại hình này là động lực quan trọng cho phát triển du lịch; là một trong 3 nguyên nhân chính (chỉ xếp sau di sản văn hóa và tự nhiên) để lựa chọn điểm đến (1) và là yếu tố hàng đầu quyết định việc quay trở lại lần 2, 3 của du khách…
Ẩm thực Huế không chỉ ngon mà còn đẹp mắt
Nhìn lại quá trình phát triển của DLAT trên thế giới, có thể thấy loại hình này đã được phát triển mạnh mẽ qua 3 giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên 2001 – 2012, DLAT được đặt tên (Food tourism/ Culinary Tourism/ Gastronomy Tourism), định hình và hoàn thiện cả về khái niệm lẫn nội hàm: là loại hình nhằm tìm kiếm và thụ hưởng sự độc đáo và đáng nhớ từ những trải nghiệm về đồ ăn và thức uống, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Từ 2012 – 2018, lý thuyết về loại hình lẫn mô hình dần được hoàn thiện từ thực tiễn khai thác ở nhiều điểm đến và được nhiều quốc gia đưa vào chiến lược phát triển với những chính sách cụ thể. Ví dụ như: Thailand – Bếp của thế giới, Con đường hương vị Indonesia, Linh hồn ẩm thực Bali, Hương vị Porto, Nuốt chửng Barcelona…Từ 2018 đến nay là giai đoạn chứng kiến sự bùng nổ của DLAT trên nhiều phương diện: doanh nghiệp quốc tế và doanh nghiệp tại điểm đến đẩy mạnh khai thác, phát triển các tua DLAT; các lễ hội ẩm thực thường xuyên được tổ chức; công tác truyền thông quảng bá liên tục được chính quyền điểm tăng cường; chi tiêu của du khách cho loại hình này ngày càng lớn (chiếm đến 1/3 chi phí chuyến đi) và thời gian lưu trú ngày càng tăng, mang lại giá trị kinh tế xã hội lớn cho các điểm đến.
Có thể khẳng định, DLAT đã và đang trở thành một xu thế chính của du lịch và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với các điểm đến. Đây chính là cơ hội đặt ra cho những vùng đất giàu bản sắc và truyền thống văn hóa. Để bắt kịp dòng chảy này, nhận thức và cách làm có lẽ là hai vấn đề quan trọng nhất cho điểm đến Huế.
Ẩm thực Huế không chỉ ngon mà còn đẹp mắt Làm sao để khai thác hiệu quả?
Từ mạch nguồn Thuận Hóa – Phú Xuân hơn 710 năm trước, Huế được mệnh danh là “Kinh đô ẩm thực” và đang chuyển mình để bảo tồn, xây dựng và phát huy những giá trị ẩm thực để xứng đáng với danh vị đó. Đây là nơi lưu giữ gần 1.300 món ăn trên tổng số khoảng 1.700 món ăn của cả nước đã được ghi chép lại. Có thể khẳng định, tài nguyên về ẩm thực chính là một trong những lợi thế cạnh tranh bậc nhất của vùng đất Cố đô. Tuy nhiên phải nhìn nhận một cách thực tế rằng, việc khai thác các tiềm năng này để phát triển du lịch thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Về mặt nhận thức, có thể thấy đa số chỉ tiếp cận ẩm thực dưới khía cạnh là hoạt động gắn với du lịch mà chưa xác định đó là một loại hình du lịch (2). Tư duy này chưa bắt kịp tốc độ phát triển của du lịch kể cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Vì thế, nhiều doanh nghiệp chỉ xem ẩm thực là một phần được tích hợp của chuyến đi, đóng vai trò phục vụ nhu cầu ăn nghỉ đơn thuần của du khách. Một số ít tuor khai thác ẩm thực theo yêu cầu của du khách chỉ dừng ở mức độ giới thiệu cơ bản một số món ăn đặc sản, truyền thống. Chưa xác định đúng loại hình nên đầu tư manh mún, thiếu cơ sở vật chất để phục vụ những đoàn lớn, nhân sự hướng dẫn nấu ăn thiếu chuyên nghiệp cả nghề lẫn tiếng, món ăn Huế có khi chỉ duy trì tên gọi nhưng nguyên liệu và cách chế biến không còn nguyên bản…
Ẩm thực Huế không chỉ ngon mà còn đẹp mắt
Để khắc phục tình trạng này, ngoài việc nâng cao nhận thức xã hội về DLAT, trong quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển du lịch của tỉnh, cần phải nâng tầm ẩm thực thành một loại hình du lịch như các điểm đến trên thế giới đang thực hiện. Về bản chất, ẩm thực là một phần của văn hóa, nhưng do tính đặc thù của khai thác du lịch cần được tách thành loại hình riêng, có quan hệ mật thiết với du lịch văn hóa nhưng không nằm trong du lịch văn hóa.
Khi DLAT được xem là một loại hình du lịch thì cách thức đầu tư, tổ chức vận hành, khai thác chắc chắn phải như những loại hình khác. Ẩm thực là sự kết tinh của văn hóa con người và vùng đất, có sự hấp dẫn tự thân để tạo thành những điểm đến riêng biệt, do đó ẩm thực phải là sản phẩm chủ đạo, là đích đến của du khách; trải nghiệm của du khách phải xoay quanh ẩm thực và các dịch vụ đi kèm. Với hướng tiếp cận đó, tinh hoa của ẩm thực Huế từ các món ăn cung đình, cơm chay, các món dân dã, đường phố, các món đặc sản vùng biển, đầm phá, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… không chỉ cần được thống kê, lưu giữ, phục hồi chế biến đúng kiểu cách theo đúng nguyên liệu, gia vị truyền thống mà còn phải nhanh chóng đưa vào khai thác trong những tua DLAT chuyên nghiệp, riêng biệt tại nhiều địa điểm với những đặc trưng khác nhau; có tư vấn bài bản với những chính sách hỗ trợ cụ thể.
Nói thế bởi vì DLAT không chỉ đơn thuần đưa khách đến một nơi để ăn (ngon) và thưởng thức đồ uống. DLAT có chức năng giáo dục, vì vậy để ẩm thực phản ánh và chuyển tải văn hóa và truyền thống đến du khách, cần phải chú trọng những vấn đề như nguồn gốc món ăn; các câu chuyện kể đi kèm về ý nghĩa, các khía cạnh về lịch sử, nghi lễ trong ăn uống của người Huế… Với chức năng khám phá, du khách cần được tìm hiểu về các hương vị, gia vị, nghệ thuật và cách chế biến trong món ăn, thức uống. Ở góc độ này, du khách cần được trải nghiệm cách chế biến thông qua các lớp dạy nấu ăn, thậm chí cả việc sản xuất các nguyên liệu ẩm thực…
Bên cạnh đó, ngoài việc chú trọng phát triển lĩnh vực F&B (Food & Beverage) theo quy hoạch, cần gấp rút xây dựng phố ẩm thực đặc trưng; hỗ trợ, tạo điều kiện để xây dựng những nhà hàng lớn có cơ sở vật chất phù hợp để dạy/ hướng dẫn nấu ăn cho du khách. Không chỉ thế, các cơ sở đào tạo cần tập trung nghiên cứu và xây dựng bộ môn du lịch ẩm thực để cung cấp nguồn nhân lực cho lĩnh vực hết sức tiềm năng này, trong đó chú trọng tiếng Anh chuyên ngành.
Trên lĩnh vực truyền thông, quảng bá, cần tập trung cho E-Marketing, chú trọng tương tác để đưa ẩm thực Huế ra với thế giới. Ngoài việc tích cực giới thiệu ẩm thực Huế qua các chương trình chuyên đề, qua các kênh trao đổi văn hóa, cần thường xuyên tham dự các Lễ hội ẩm thực lớn trên thế giới. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng “Kinh đô ẩm thực”, ngay từ bây giờ cần chuẩn bị những thủ tục cơ bản để vinh danh ẩm thực Huế là di sản văn hóa thế giới như Pháp đã làm và được công nhận năm 2010 – trong đó thành phố cổ Dijon thuộc vùng Burgundy được xây dựng thành “thành phố ẩm thực”.
(1) UNWTO (2017), The Second Global Report on Gastronomy Tourism, Madrid, Spain. (2) Chưa nói đến việc nhận thức và phát triển loại hình DLAT, ngay cả trong Quyết định số 2522/QĐ-BVHTTDL, ngày 13/7/2016 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Chiến lược phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, không có từ nào nhắc đến ẩm thực trong định hướng phát triển thương hiệu du lịch quốc gia và phát triển thương hiệu du lịch vùng, địa phương. * Huế trong bài mang nội hàm của vùng đất – Thừa Thiên Huế. Bài, ảnh: TS. Trần Hữu Thùy Giang
Chương 3. Thực Trạng Công Tác Quản Lý Đào Tạo Ở Trường Cđn Du Lịch
Tải bản đầy đủ – 131trang
-48DCCS; Nâng cao đời sống và công tác xã hội… 15 năm qua, trường đã đào tạo dạy
nghề cho hơn 25 nghìn lao động có trình độ kỹ thuật từ bậc 2/7 đến đại học, hơn 30
nghìn học viên sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên; Tư vấn giới thiệu việc làm cho
gần 15 nghìn người.
Chức năng, nhiệm vụ của Trường.
* Chức năng
Trường Cao đẳng nghề Du lịch – Thương mại Nghệ An là cơ sở đào tạo công
lập nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trường có chức năng đào tạo các nghề hệ Cao đẳng: Kế toán doanh nghiệp,
hướng dẫn du lịch, quản trị lữ hành, quản trị doanh nghiệp, quản trị khách sạn, quản trị
nhà hành, kỹ thuật chế biến món ăn. Đối với trung cấp nghề: Kế toán danh nghiệp,
hướng dẫn du lịch, nghiệp vụ nhà hàng, kỹ thuật chế biến món ăn, nghiệp vụ lễ tân,
quản trị doanh nghiệp. Đồng thời là cơ sở nghiên cứu, triển khai khoa học phục vụ cho
sản xuất kinh doanh, phục vụ nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội trong Tỉnh và khu vực Bắc Trung Bộ.
Trường chịu sự lãnh đạo và quản lý trực tiếp của UBND tỉnh Nghệ An, sự quản
lý của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Trường hoạt động theo điều lệ Trường
Cao đẳng công lập.
* Nhiệm vụ
– Đào tạo học sinh sinh viên hệ Cao đẳng, Trung cấo và sơ cấp nghề có phẩm
chất chính trị đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp, có sức
khoẻ, có năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội.
– Nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học kết hợp đào tạo với nghiên cứu
khoa học và lao động sản xuất, dịch vụ.
– Liên kết với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và các đơn vị sản xuất
kinh doanh trong và ngoài nước.
– Quản lý sử dụng và khai thác có hiệu quả đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh,
sinh viên, cơ sở vật chất tài sản các nguồn vốn Nhà nước giao, đảm bảo đời sống, giữ
gìn trật tự an ninh an toàn xã hội trong nhà trường và địa phương.
3.1.1. Cơ cấu, quy mô đào tạo của Trường CĐN Du lịch -Thương mai Nghệ An
– Ban giám hiệu,
Gồm Hiệu trưởng và 03 phó hiệu trưởng.
-49 07 phòng chức năng:
Bao gồm phòng Tổ chức – Hành chính:
– Phòng Tổ chức – Hành chính : ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của
trường trường CĐN Du lịch – Thương mại Nghệ An. Ban đầu Phòng chỉ có một số ít
thành viên thực hiện công tác tổ chức, cán bộ. Sau đó, Phòng đã mở rộng sang thực
hiện các công tác hành chính, pháp chế của nhà trường. Một trong những thành tựu
nổi bật của Phòng Tổ chức – Hành chính là đã đóng góp tích cực vào công tác phát
triển lớn mạnh về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trong trường.
Thời gian đầu Nhà trường chỉ có vài chục cán bộ, giảng viên vào những ngày đầu
thành lập, đến nay đội ngũ cán bộ, giảng viên của nhà trường hiện nay là số lượng
đáng kể người với số lượng người có học hàm, học vị ngày càng tăng.
– Phòng Đào tạo: có chức năng tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo nhà trường
về công tác xây dựng, phát triển và quản lý các chương trình đào tạo và các hoạt động
đào tạo ở bậc TC,CĐN, CĐ chính quy của Trường. Đồng thời tham mưu, nghiên cứu,
xây dựng chiến lược đào tạo. Phối hợp với các khoa đào tạo nghiên cứu xây dựng
chương trình và mục tiêu của ngành học, đề xuất mở các ngành học mới và bãi bỏ các
ngành học không còn phù hợp. Nhiệm vụ sau đó là xây dựng kế hoạch dài hạn, kế
hoạch giảng dạy hàng năm đối với bậc đào tạo TC, CĐN, CĐ chính quy và theo dõi
thực hiện kế hoạch đã được Hiệu trưởng phê duyệt và tổ chức quản lý, kiểm tra theo
dõi đánh giá chất lượng đào tạo qua việc thực hiện các nội quy, quy chế, lịch trình
giảng dạy, thời khoá biểu của các đơn vị và cá nhân theo nội dung chương trình đào
tạo đã được duyệt.
– Phòng Công tác học sinh sinh viên : Có nhiệm vụ công tác quản lý, điều
hành các hoạt động của SV trong nhà trường như các hoạt động đoàn đôi, các hoạt
động QL phong trào của SV.
– Phòng Kế toán tài vụ. Tham mưu cho Hiệu trưởng về công tác giám sát, điều
hành kinh phí ngân sách nhà nước, kinh phí thu hợp pháp khác và công tác nghiệp vụ
kế toán theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước. Thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm
vụ công tác kế toán theo các quy định của Nhà nước đối với đơn vị sư nghiệp công lập
có thu
– Phòng Thanh tra khảo thí và Kiểm định chất lượng : Phòng tuy mới được
thành lập nhưng vai trò trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường vô
-50cùng quan trọng. . Tham mưu cho HĐNT và BGH về việc xây dựng kế hoạch và triển
khai kế hoạch công tác thanh tra trong nhà trường. Tham mưu cho HĐNT và BGH
việc thực hiện chức năng quản lý về công tác khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo
trong nhà trường. Đồng thời tham mưu cho HĐNT và BGH về công tác kiểm định chất
lượng đào tạo đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đánh giá chất lượng đào tạo
Phòng công tác đối ngoại : Tham mưu cho Hiệu trưởng về lĩnh vực Khoa học
công nghệ trong toàn trường. Tham mưu và giúp Hiệu trưởng về công tác đối ngoại và
hợp tác quốc tế.
Ngoài ra còn phòng quản lý ký túc xá có nhiệm vụ trong việc QL SV trong giờ
giấc học tập và sinh hoạt.
Trong nhà trường có 07 khoa trực thuộc. Bao gồm các khoa
Sơ đồ 3.1. Các khoa cơ bản của nhà trường
CÁC KHOA CƠ BẢN
Khoa
cơ bản
Khoa
KTCB món
Khoa
DLKS
Khoa
KT – TM
Khoa
Sư phạm
Ngoài ra nhà trường còn 2 khoa là khoa Ngoại ngữ và tin học và 02 Trung tâm:
Trung tâm tư vấn việc làm và hỗ trợ HSSV; Trung tâm thực hành.
Quy mô đào tạo
Đào tạo hệ cao đẳng nghề, CĐ chính quy các ngành như: Kế Toán Doanh
Nghiệp, Quản Trị Doanh Nghiệp, Hướng Dẫn Du Lịch, Quản trị Khách sạn, Quản trị
Nhà hàng, Kỹ thuật chế biến món ăn, Quản trị lữ hành, Quản trị lễ tân
Đào tạo hệ trung cấp nghề có các ngành như: Hướng dẫn Du lịch, Kỹ thuật chế
biến món ăn, Kế toán doanh nghiệp, Dịch vụ nhà hàng, Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ
bán hàng
3.1.2. Cơ sở vật chất của Trường CĐN Du lịch -Thương mai Nghệ An.
Cơ sở hạ tầng và nhân lực công nghệ thông tin
Mỗi năm, Trường CĐ nghề Du lịch – Thương mại Nghệ An đào tạo hơn 1000
sinh viên, các hệ cao đẳng, trung cấp nghề và đại học liên kết. Trường hiện nay có 2 cơ
-51sở đào tạo tại Cửa Lò và một cơ sở tại TP Vinh, với quy mô đầu tư trên 400 tỷ đồng;
Trường đang đầu tư xây dựng thư viện điện tử 7 tầng, qui mô hiện đại với tổng mức
đầu tư hơn 70 tỷ đồng. Chủ trương đào tạo của trường luôn gắn với giải quyết việc làm
nên hầu hết các sinh viên của trường sau khi học xong đều có việc làm và có thu nhập
ổn định
Hàng năm trường tuyển sinh đều đạt và vượt chỉ tiêu (từ 10-20%). Song song
với việc chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học, trường luôn quan tâm đầu tư cơ sở
vật chất trang thiết bị dạy học. Từ năm 2010 đến nay, trường được đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học trị giá 200 tỷ 355 triệu đồng. Ngoài ra, trường có sự phối
làm sau đào tạo. Nhờ vậy, trên 85 % HSSV của trường được tư vấn và giải quyết việc
làm sau đào tạo.
Với đội ngũ CBGV hơn 170 người (Trong đó trên 30% có trình độ thạc sỹ,
NCS và nhiều thợ bậc cao).
Trước yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước. Trường tiếp tục phát huy truyền thống qua 15 năm, khắc phục
những khuyết điểm tồn tại, đoàn kết, phát huy dân chủ và trí tuệ của CBGV toàn
trường phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chất lượng ĐVCĐ được nâng lên
(Trên 50% có trình độ SĐH, chuyên gia, thợ bậc cao; 35% có trình độ QLNN về giáo
dục; 60% có trình độ tin học, ngoại ngữ bằng B trở lên.. ); bảo vệ thành công 03 đề tài
cấp Tổng cục và hàng chục đề tài NCKH cấp cơ sở. So với đầu nhiệm kỳ: Đời sống,
trên 550 triệu cho công tác đền ơn, đáp nghĩa, công tác xã hội được…
3.2. Thực trạng công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý
đào tạo của trường CĐN Du lịch – Thương mại Nghệ An.
3.2.1. Thực trạng năng lực ứng dụng CNTT vào quản lý đào tạo của trường CĐN
Du lịch – Thương mại Nghệ An
Bảng 3.1. Thực trạng năng lực ứng dụng CNTT vào quản lý đào tạo của trường
CĐN Du lịch – Thương mại Nghệ An
TT Các tiêu chí đánh giá
ĐTB
ĐLC
TB
1
Kỹ năng soạn thảo văn bản
3.90
0.95
1
2
Kỹ năng sử dụng bảng tính điện tử
2.70
1.16
8
-523
Kỹ năng sử dụng chương trình trình diễn
2.92
1.16
5
4
Kỹ năng truy cập internet để tìm kiếm thông tin
3.01
1.25
2
5
Kỹ năng tổ chức lưu trữ thông tin
2.88
1.23
6
6
Kỹ năng sử dựng Exel
2.93
1.16
4
7
Trình chiếu, sử dụng PowrPoint
2.95
1.16
3
8
Chuyển nhận thông tin bằng Email, truy cập Internet
2.89
1.25
6
9
Sử dụng các phần mềm quản lý
2.7
1.16
8
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Nhận xét
Phần lớn cán bộ giáo viên nào sử dụng CNTT khá trở lên (sử dụng được những
chương trình thông dụng trong bộ Microsoft Office), trong đó những kỹ năng được sử
dụng mang tính phổ biến là “Kỹ năng soạn thảo văn bản” có ĐTB=3.90 sau đó “Kỹ
năng truy cập internet để tìm kiếm thông tin” có ĐTB=3.01, và kỹ năng cũng được
đánh giá cao là “Trình chiếu, sử dụng PowrPoint” có ĐTB=2.95 đồng thời “Kỹ năng
sử dựng Exel” có ĐTB=2.93
Tuy nhiên còn một số kỹ năng mà cán bộ đào tạo đánh giá về kỹ năng sử dụng
CNTT vào quản lý đào tạo còn hạn chế là
– Kỹ năng sử dụng bảng tính điện tử
– Kỹ năng tổ chức lưu trữ thông tin
– Sử dụng các phần mềm quản lý
Như vậy cán bộ quản lý tại nhà trường đều có trình độ tin học văn phòng trở
lên. Tuy nhiên đa số cán bộ quản lý chỉ sử dụng một số kỹ năng cơ bản chưa có sử
dụng một số phần mềm quản lý như phần mềm tính điểm hay kế toán.
3.2.2. Ứng dụng CNTT vào quản lý chương trình, qui trình đào tạo
Bảng 3.2. Ứng dụng CNTT vào quản lý chương trình, qui trình đào tạo
TT
Các tiêu chí đánh giá
ĐTB
ĐLC
TB
1
Xây dựng mục tiêu đào tạo
2.87
1.08
3
2
Xây dựng cơ cấu nội dung các môn học
2.73
1.17
9
3
Thiết lập thời gian đào tạo
2.90
1.19
2
4
Xây dựng tỷ lệ phân bổ thời gian giữa các môn khoa học cơ
2.79
1.08
6
bản, cơ sở và chuyên ngành, giữa lý thuyết và thực hành
-535
Giúp SV nắm vững các kiến thức giáo dục đại cương và các
2.70
1.11
10
2.80
1.09
5
kiến thức chuyên ngành thông qua ứng dụng CNTT
6
Sử dụng CNTT vào xây dựng kỹ năng cơ sở của ngành và
lien ngành đúng theo yêu cầu đào tạo
7
Xây dựng kiến thức giáo dục đại cương
2.75
1.14
8
8
Xây dựng kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
2.82
1.12
4
9
Quản lý hồ sơ đầu vào của SV
2.95
1.09
1
10
Quản lý quá trình học tập, rèn luyện của SV
2.76
1.12
7
11
Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV
2.73
1.09
9
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Nhận xét
Quản lý đào tạo là nhà quản lí cấp cao cho nên mọi nhiệm vụ, hoạt động cụ thể
đều trên cơ sở các kế hoạch đã định trước và nhận các quyết định quản lí nhà trường.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả thì rất cần đến kỹ năng
lập kế hoạch đào tạo, quản lý hồ sơ đầu vào, quản lý chương trình đào tạo. Mặt khác,
máy tính, mạng internet là công cụ làm việc chủ yếu của công tác quản lí kết quả học
tập: tính toán, nhập điểm, báo cáo, lưu trữ,… Thông qua tư duy, kinh nghiệm và kỹ
năng sử dụng CNTT mà các kỹ năng khác được củng cố và phát triển hơn.
Qua kết quả điều tra cho thấy việc ứng dụng CNTT vào quản lý chương trình
đào tạo được thể hiện ở những nội dung như “Quản lý hồ sơ đầu vào của SV” có
ĐTB=2.95 sau đó là “Thiết lập thời gian đào tạo” có ĐTB=2.90 và “Xây dựng mục
tiêu đào tạo” có ĐTB=2.87. Tuy nhiên theo đánh giá của bộ phận quản lý thì ứng dụng
CNTT vào quản lý chương trình đào tạo còn hạn chế ở điểm như:
– Xây dựng cơ cấu nội dung các môn học
– Sử dụng CNTT vào xây dựng kỹ năng cơ sở của ngành và liên ngành đúng
theo yêu cầu đào tạo
– Giúp SV nắm vững các kiến thức giáo dục đại cương và các kiến thức chuyên
ngành thông qua ứng dụng CNTT
– Xây dựng kiến thức giáo dục đại cương
– Quản lý quá trình học tập, rèn luyện của SV
– Quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV
– Xây dựng kiến thức giáo dục đại cương
-54Như vậy ứng dụng CNTT vào quản lý chương tình đào tạo chỉ thể hiện ở một
số khâu cơ bản mà chưa có sự phổ cập như các nội dung xây dựng chương trình đại
cương, xây dựng mô hình kiến thức giúp SV trong việc hình thành phương pháp học
tập. Nhà trường cần có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng cán bộ quản lý ứng dụng CNTT
vào QLĐT được chuyện sâu hơn.
3.2.3. Ứng dụng CNTT vào quản lý kế hoạch giảng dạy, thi cử
Bảng 3.3. Ứng dụng CNTT vào quản lý kế hoạch giảng dạy, thi cử
TT
1
Các tiêu chí
ĐTB
ĐLC
TB
2.40
1.00
5
Sử dụng phần mềm quản lí kết quả học tập của sinh viên; tổ 2.41
1.04
4
1.12
7
2.48
1.08
3
2.36
1.07
6
Xây dựng thời khoá biểu, bố trí và điều hành lịch trình 2.27
1.18
8
2.50
1.03
2
2.60
1.18
1
Sử dụng CNTT vào xây dựng thực hiện kế hoạch tuyển
sinh CĐ Nghề các hệ; hướng dẫn các khoa, bộ môn trực
thuộc tổ chức đào tạo bổ túc kiến thức và đào tạo ngắn hạn;
2
chức xét học tiếp, ngừng học, cho thôi học và bảo lưu kết
quả học tập đối với sinh viên;
3
Xây dựng kế hoạch giảng dạy, học tập và điều kiện vật chất 2.29
(giảng đường, sân bãi, thiết bị giảng dạy…) phục vụ cho
việc giảng dạy và học tập
4
Xây dựng kế hoạch giảng dạy, học tập cho từng khoá học,
từng năm học, từng ngành, từng cấp đào tạo trong trường
5
Sử dụng phần mềm theo dõi, giám sát, đôn đốc và kiểm tra
việc thực hiện kế hoạch đào tạo, nội dung, chương trình,
giảng dạy, học tập, thi, kiểm tra cũng như việc thực hiện kế
hoạch chung
6
giảng dạy – học tập, giám sát, đôn đốc
7
Ứng dụng phần mềm các chương trình tuyển sinh hằng
năm, tổ chức các kỳ thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp và thi học
kỳ
8
Sử dụng phần mềm quản lý kết quả thi, kết quả học tập,
đảm bảo đánh giá đúng chất lượng đào
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
-55Nhận xét
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương
pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo,
phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều
điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy
theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin
và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy tính, với Internet, dạy
học theo hình thức lớp học phân tán qua mang, dạy học qua cầu truyền hình. Nếu trước
kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay
phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ
động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức
và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng
tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học
sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn. Việc ứng dụng CNTT vào QL chương
trình giảng dạy và đánh giá kết quả học tập của HS rất có ý nghĩa. Hiện tại trường CĐ
Nghề Du lịch Nghệ An có những thành công trong việc ứng dụng CNTT vào QL
chương trình giảng dạy và thi cử thể hiện ở các nội dung như: “Ứng dụng phần mềm
các chương trình tuyển sinh hằng năm, tổ chức các kỳ thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp và
thi học kỳ” có ĐTB=2.60 và ” Sử dụng phần mềm quản lý kết quả thi, kết quả học tập,
đảm bảo đánh giá đúng chất lượng đào tạo” có ĐTB=2.50 đồng thời “Xây dựng kế
hoạch giảng dạy, học tập cho từng khoá học, từng năm học, từng ngành, từng cấp đào
tạo trong trường” có ĐTB=2.48.
Tuy nhiên mặc dù vậy thì việc ứng dụng CNTT vào QL chương trình giảng
dạy, thi cử vẫn còn hạn chế như:
– Xây dựng kế hoạch giảng dạy, học tập và điều kiện vật chất (giảng đường, sân
bãi, thiết bị giảng dạy…) phục vụ cho việc giảng dạy và học tập
– Xây dựng thời khoá biểu, bố trí và điều hành lịch trình giảng dạy – học tập,
giám sát, đôn đốc
– Sử dụng phần mềm theo dõi, giám sát, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kế
hoạch đào tạo, nội dung, chương trình, giảng dạy, học tập, thi, kiểm tra cũng như việc
thực hiện kế hoạch chung
– Sử dụng CNTT vào xây dựng thực hiện kế hoạch tuyển sinh CĐ Nghề các hệ;
hướng dẫn các khoa, bộ môn trực thuộc tổ chức đào tạo bổ túc kiến thức và đào tạo
ngắn hạn
-56Thông qua nghiên cứu thực trạng cho thấy việc ứng dụng CNTT vào quản lý
giảng dạy và thi cử cũng còn nhiều điểm hạn chế. Vì vậy để thúc đẩy được hạn chế
này nhà trường cần phát triển ứng dụng các phần mềm trong đó các phần mềm giáo
dục cũng đạt được những thành tựu đáng kể như: bộ Office, Cabri, Crocodile,
SketchPad/Geomaster SketchPad, Maple/Mathenatica, ChemWin, LessonEditor/VioLet
… .Hệ thống các phần mền đóng gói, tiện ích khác. Nhờ có máy tính điện tử mà việc
thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều
thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”,
vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh,
âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua
giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện
cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học.
3.2.4. Ứng dụng CNTT vào quản lý điểm
Bảng 3.4. Ứng dụng CNTT vào quản lý điểm
TT
Các tiêu chí
ĐTB
ĐLC TB
1
Tính toán, nhập điểm, báo cáo, lưu trữ,…
2.48
1.12
3
2
Xây dựng các kì thi trong trường: thi hết môn, thi học kì,
2.28
1.19
6
Ứng dựng phần mềm quản lý điểm thi học phần, học kỳ, 2.54
1.33
1
thi tốt nghiệp.
3
thi tốt nghiệp
4
Lưu trữ điểm
2.35
1.08
5
5
Sử dụng phần mềm tính điểm học phần, học kỳ, điểm
2.50
1.15
2
2.41
1.06
4
chung bình học tập
6
Ứng dựng CNTT vào đánh giá, kiểm tra kết quả học tập
của SV
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Nhận xét
Qua kết quả cho thấy việc ứng dụng CNTT vào quản lý điểm được ứng dụng rất
nhiều nhưng thể hiện ở các phần như “Ứng dựng phần mềm quản lý điểm thi học
phần, học kỳ, thi tốt nghiệp”có ĐTB=2.54 đứng vị trí đầu tiên. Sau đó là “Sử dụng
phần mềm tính điểm học phần, học kỳ, điểm chung bình học tập” có ĐTB=2.50 và
“Tính toán, nhập điểm, báo cáo, lưu trữ,…” có ĐTB=2.48. Hầu hết cán bộ, giáo vụ nhà
-57trường đều sử dụng CNTT vào nhập điểm, tính toán kết quả học tập cho SV, đánh giá
kết quả học tập cho SV. Ngoài ra trong công tác ứng dụng CNTT vào phần mềm QL
điểm còn được ứng dụng trong các khâu như:
– Xây dựng các kì thi trong trường: thi hết môn, thi học kì, thi tốt nghiệp.
– Lưu trữ điểm
– Ứng dựng CNTT vào đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của SV
3.2.5. Ứng dụng CNTT vào Quản lý công tác tốt nghiệp
Như trên chúng tôi đã đưa ứng dụng CNTT vào QLĐT trong đó có QL chương
trình, giảng dạy, QL điểm và một trong những ứng dụng rất quan trọng giúp cho BGH,
Tổng cục dạy nghề thông qua đó có thể biết được hiệu quả đào tạo của nhà trường là
Bảng 3.5. Ứng dụng CNTT vào Quản lý công tác tốt nghiệp
TT
1
Các tiêu chí
Sử dụng CNTT vào xây dựng tổ chức công tác xét tốt
ĐTB ĐLC
TB
2.35
1.21
4
nghiệp
2
Hỗ trợ CB đào tạo trong cấp bằng tốt nghiệp
2.31
1.10
6
3
Ứng dụng CNTT vào việc cấp chứng chỉ đào tạo và quản
2.48
1.19
2
lí hồ sơ văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp của sinh viên
4
Cấp bảng điểm, giấy chứng nhận về học tập cho sinh viên
2.33
1.12
5
5
Lưu trữ điểm, bảng điểm, kết quả thi tốt nghiệp của SV
2.59
1.25
1
6
Ứng dụng quản lý việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ cho
2.37
1.15
3
sinh viên, học sinh theo đúng qui định
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Nhận xét:
Qua kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy ứng dụng CNTT vào Quản lý công
tác tốt nghiệp được thể hiện tập trung ở các khâu như “Lưu trữ điểm, bảng điểm, kết
quả thi tốt nghiệp của SV” có ĐTB=2.59 có vị trí đầu tiên trong bảng xếp loại sau đó
là “Ứng dụng CNTT vào việc cấp chứng chỉ đào tạo và quản lí hồ sơ văn bằng, chứng
chỉ tốt nghiệp của sinh viên” có ĐTB=2.48 đứng ở vị trí thứ 2 và “Ứng dụng quản lý
việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ cho sinh viên, học sinh theo đúng qui định” có
ĐTB=2.37. Còn một số mặt của quản lý công tác tốt nghiệp nhưng chưa việc ứng dụng
CNTT vào ít là
-58-
Hỗ trợ CB đào tạo trong cấp bằng tốt nghiệp
–
Cấp bảng điểm, giấy chứng nhận về học tập cho sinh viên
–
Sử dụng CNTT vào xây dựng tổ chức công tác xét tốt nghiệp
Công tác QL tốt nghiệp rất quan trọng của phòng đào tạo nhà trường. Đây là
khâu thông qua đó BGH đánh giá về hiệu quả của cả quá trình như quản lý chương
trình đào tạo, QL giảng dạy điểm tho, QL điểm thi. Qúa trình sẽ rất mất nhiều nhân
lực, thời gian và công sức nếu không có CNTT. Vì vậy để QLĐT được chất lượng hơn
nhà trường cần hướng dẫn cán bộ ĐT tăng cường ứng dụng CNTT vào việc cấp bảng
điểm, xây dựng kế hoạch xét TN…
3.3. Phân tích yếu tố ảnh hưởng tới ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý đào tạo tại trường CĐN Du lịch – Thương mại Nghệ An.
3.3.1. Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 3.6. Tuổi, giới tính, trình độ đào tạo, trình độ sử dụng CNTT của cán bộ
quản lý, giáo viên trường CĐN Du lịch – Thương mại Nghệ An
Mẫu
Số lượng
Tỷ lệ %
Dưới 30
80
47.0
Từ 30-40
68
40
Trên 40
22
12.9
Nữ
96
56.8
Nam
74
43.5
Thạc sĩ
16
10
Cử nhân
120
75
Cao đẳng
34
21.25
Cán bộ quản lý
45
28.00
Giáo viên
131
81.75
Chứng chỉ tin học
133
83.125
Trình độ sử dụng
Bằng trung cấp
24
15.0
CNTT
Bằng cao đẳng
6
3.75
Bằng đại học
7
4.37
Tuổi
Giới tính
Trình độ đào tạo
Thành phần
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra
Thực hiện điều tra 170 mẫu cán bộ nhân viên giáo viên, số phiếu đạt yêu cầu
phân tích là 160 mẫu do cán bộ giáo viên trả lời không đầy đủ thông tin phục vụ cho
mục tiêu nghiên cứu của luận văn. Kết quả phân tích cho thấy,
Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Những Vấn Đề Đặt Ra Trong Công Tác Quản Lý Nhà Nước Về Đầu Tư Du Lịch Của Vĩnh Phúc trên website Samthienha.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!