Top 4 # Đóng Góp Của Du Lịch Vào Gdp Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Samthienha.com

Đóng Góp Của Du Lịch Vào Gdp

Thực tế cho thấy, ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xác định du lịch là một trong những ngành kinh tế quan trọng, đóng góp đáng kể và hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… của đất nước.

Theo công bố mới đây tại Hội nghị Bộ trưởng Du lịch G20 vừa diễn ra ngày 16 tháng 5 năm 2012 tại Mexico, ngành du lịch chiếm 9% thu nhập GDP thế giới. Du lịch là một trong những ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất. Năm 2011, mặc dù trong bối cảnh nền kinh tế thế giới tăng trưởng không lấy gì làm tốt đẹp và ổn định, ngành du lịch toàn thế giới vẫn tăng 4,6%, đón được 982 triệu lượt khách và thu nhập du lịch tăng 3,8%. Dự báo du lịch thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách bền vững trong những năm tới, đạt 1 tỷ lượt khách trong năm 2012 và 1,8 tỷ lượt năm 2030.

Bên cạnh những chỉ số đóng góp ấn tượng trên, du lịch cũng được đánh giá là ngành quan trọng tạo nhiều việc làm cho xã hội, chiếm 8% lao động toàn cầu. Cứ mỗi một việc làm trong ngành du lịch ước tính tạo ra 2 việc làm cho các ngành khác. Ngành du lịch cũng sử dụng lao động nhiều vượt trội so với ngành công nghiệp khác, gấp 6 lần ngành sản xuất ô tô, gấp 4 lần ngành khai khoáng, và gấp 3 lần ngành tài chính. Du lịch cũng đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy mậu dịch quốc tế. Năm 2011, xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế bao gồm cả vận chuyển hành khách đạt 1,2 nghìn tỷ USD, chiếm 30% xuất khẩu toàn thế giới.

Tổng giá trị đóng góp du lịch vào GDP của quốc gia gồm:

Đóng góp trực tiếp (1) + Đóng góp gián tiếp (2) + Đóng góp phát sinh (3).

(1). Đóng góp trực tiếp: Tổng chi tiêu (trên phạm vi quốc gia) của khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa (cả mục đích kinh doanh và nghỉ dưỡng), chi tiêu của Chính phủ đầu tư cho các điểm tham quan như công trình văn hóa (bảo tàng) hoặc các khu vui chơi giải trí (công viên quốc gia); thu nhập của các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn, cơ sở lưu trú, vận chuyển (đường bộ, đường không, đường thủy,..), cầu cảng, sân bay, dịch vụ vui chơi giải trí, các điểm tham quan du lịch, các cửa hàng bán lẻ, các khu dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí. Trừ phần chi phí mà các cơ sở cung cấp dịch vụ này mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho khách du lịch.

(2). Đóng góp gián tiếp:

+ Chi tiêu đầu tư vật chất cho du lịch: Ví dụ như đầu tư mua máy bay mới, xây dựng khách sạn mới;

+ Chi tiêu công của chính phủ: ví dụ như đầu tư kinh phí xúc tiến, quảng bá, hàng không, chi phí cho công tác quản lý nhà nước chung, chi phí cho phục vụ an toàn an ninh, vệ sinh môi trường…

+ Chi phí do các đơn vị, cơ sở cung cấp dịch vụ mua sắm trong nước đối với hàng hóa, dịch vụ để phục vụ khách du lịch. Ví dụ: chi phí mua sắm thực phẩm, dịch vụ giặt là trong khách sạn, chi phí mua xăng dầu, dịch vụ cho hàng không, dịch vụ tin học, kết nối mạng trong các hãng lữ hành…

(3). Đóng góp phát sinh: Đây là khoản chi tiêu cá nhân của tổng đội ngũ, lực lượng lao động tham gia cả trực tiếp và gián tiếp vào ngành du lịch trên toàn quốc, gồm cả các cấp quản lý nhà nước và cơ sở cung cấp dịch vụ, hãng lữ hành, khách sạn…

Ví dụ: Chi tiêu cho ăn uống, tham gia hoạt động vui chơi, giải trí, mua sắm quần áo, vật dụng cá nhân, nhà ở…

Với cách tính trên, theo dự báo của Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới, năm 2012, giá trị đóng góp trực tiếp vào GDP của ngành du lịch Việt Nam sẽ tăng 6,6% so với năm 2011 và sẽ tăng bình quân 6,1% hàng năm tính đến năm 2022; tổng giá trị đóng góp của toàn ngành (trực tiếp, gián tiếp và phát sinh) vào GDP tăng 5,3% năm 2012 và sẽ tăng bình quân 6,0% tới năm 2022. Về tạo việc làm, năm 2012, tổng lao động trong ngành du lịch Việt Nam tăng 1,4% tương đương 4.355.000 gồm cả lao động trực tiếp và gián tiếp và sẽ tăng trung bình 1,1% hàng năm và sẽ đạt 4.874.000 vào năm 2022. Về xuất khẩu du lịch tại chỗ trong năm 2012, tăng 5% và bình quân tăng 6% hàng năm, tới năm 2022 đạt 4,3% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Về đầu tư du lịch trong năm 2012 sẽ tăng 0,5%, trong vòng 10 năm tới con số này sẽ đạt 7,7% trong tổng đầu tư toàn quốc.

Với những chỉ số dự báo ấn tượng và khả quan trên, có thể thấy ngành du lịch Việt Nam đang đứng trước một tương lai đầy hứa hẹn. Đó là dấu hiệu đáng mừng, tuy nhiên cũng còn phải đương đầu với không ít thách thức và khó khăn phía trước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt, phức tạp hơn và không chỉ giới hạn ở phạm vi cấp quốc gia mà còn lan tỏa trên toàn khu vực. Để có thể phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hấp dẫn và cạnh tranh cao, bên cạnh nỗ lực của riêng bản thân ngành du lịch, rất cần có sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ nhiều hơn nữa từ tất cả các cấp, các ngành. Trong đó cần phải có đột phá ngay từ khâu nhận thức về du lịch, mọi quyết định phát triển du lịch cần phải nâng lên thành quyết tâm và ý chí chính trị cấp quốc gia. Du lịch Việt Nam đã bước ra khỏi giai đoạn phát triển ban đầu và đang tiến vào giai đoạn chuyển tiếp trước khi bứt phá. Toàn ngành du lịch, trực tiếp đối với các cấp quản lý nhà nước về du lịch, từ trung ương tới địa phương, cần phải chủ động nghiên cứu, bám sát diễn biến của thị trường, nhạy bén hơn nữa với những biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và quốc tế. Nghiên cứu đề xuất áp dụng các công nghệ hiện đại vào công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, đặc biệt về tài khoản vệ tinh du lịch, qua đó sẽ giúp công tác dự báo xu hướng thị trường và đánh giá chính xác hơn về hiệu quả và vai trò đóng góp của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, đề xuất các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, các kế hoạch, quy hoạch du lịch phù hợp và khả thi, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Với những định hướng cơ bản trên, nếu vận dụng và thực thi tốt, chắc chắn sẽ tạo cơ sở vững chắc để thúc đẩy ngành du lịch phát triển theo hướng chất lượng, bền vững, đạt mục tiêu đề ra.

Phạm Quang HưngNguyên Vụ trưởng Vụ HTQT – TCDL

Các bài viết khác

Tập Huấn Về Phương Pháp Xác Định Đóng Góp Của Du Lịch Vào Gdp

Ông David McEweb – chuyên gia quốc tế về thống kê của Dự án EU đã giới thiệu tổng quan về tác động kinh tế của du lịch và phương pháp đánh giá, tài liệu từ Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Lữ hành và Du lịch thế giới (WTTC). Nội dung tập trung vào các công việc đã thực hiện tại Việt Nam; các tác động trực tiếp, gián tiếp và tạo thêm từ du lịch; ước tính cầu, ước tính cung; giá trị gia tăng trực tiếp do du lịch tạo ra; việc làm trong ngành Du lịch; phương pháp tiếp cận đã sử dụng để xây dựng Báo cáo Thường niên Du lịch Việt Nam.

Bên cạnh đó, buổi tập huấn cũng tập trung vào nội dung liên kết với Tài khoản vệ tinh du lịch Việt Nam (TSA): tài khoản TSA quốc gia 10 bảng theo UNWTO; tài khoản TSA vùng/tỉnh theo UNWTO; tình hình xây dựng TSA quốc gia hiện nay của Việt Nam; phương thức được sử dụng trong Báo cáo Thường niên liên kết như thế nào với TSA của Việt Nam.

Đồng thời, chuyên gia Dự án EU-ESRT cũng chia sẻ kết quả hỗ trợ của Dự án đối với tỉnh Quảng Ninh trong việc xây dựng thành công tài khoản vệ tinh cấp tỉnh và xác định đóng góp của du lịch vào kinh tế tỉnh Quảng Ninh; nhấn mạnh các nội dung về phương pháp xác định đóng góp của du lịch vào GDP bao gồm: nguồn tài liệu, xác định tổng thu từ du lịch, xác định đóng góp của du lịch vào GDP, xác định tác động của du lịch tới việc làm…

Đến dự buổi tập huấn, Giám đốc Sở Du lịch Hà Nội Đỗ Đình Hồng – đánh giá nội dung phương pháp xác định đóng góp của du lịch vào GDP rất quan trọng đối với ngành Du lịch Hà Nội, mong muốn áp dụng những kinh nghiệm và kết quả của phương pháp thống kê ở Quảng Ninh vào thực tế ngành Du lịch Thủ đô, nhằm làm cơ sở định hướng tất cả các hoạt động của Du lịch Thủ đô trong thời gian tới.

Ông Vũ Quốc Trí – Giám đốc Dự án EU-ESRT cam kết sẽ đề xuất Tổng cục Du lịch có công văn gửi UBND Hà Nội chỉ đạo Sở thực hiện công tác này, đồng thời Dự án sẽ có những hợp tác hỗ trợ kỹ thuật về phương pháp đối với Du lịch Hà Nội.

PV

Ngành Du Lịch Sẽ Đóng Góp 10% Gdp Cả Nước

BNEWS Du lịch Việt được ví như viên ngọc tiềm ẩn với vô vàn tiềm năng, nhưng thực tế khi so sánh với các quốc gia đi đầu trong khu vực vẫn còn một khoảng cách khá xa.

Ngày 5/12, tại Hà Nội, Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân phối hợp cùng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Hội đồng tư vấn du lịch Việt Nam (TAB), Báo VnExpress và Hiệp hội Du lịch tổ chức Diễn đàn Cấp cao Du lịch Việt Nam 2018.

Phát biểu khai mạc sự kiện, ông Trần Trọng Kiên – Thành viên Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế Tư nhân cho biết, 10 năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam có sự tăng trưởng ấn tượng, nhất là 3 năm gần đây, lượng khách du lịch đến Việt Nam đã tăng gấp đôi.

Tuy nhiên, ngành du lịch đang vấp phải những thách thức hết sức to lớn. Cụ thể, năng suất lao động trong ngành thấp và tăng trưởng chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia chưa cao. Tính bền vững thấp với sự phụ thuộc nhiều vào một vài thị trường và một vài điểm đến. Ngoài ra, một số điểm thăm quan đã có sự phá hủy môi trường nghiêm trọng cùng với sự xuống cấp của nhiều giá trị văn hóa.

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng, Việt Nam có nhiều tiềm năng du lịch. Đây là ngành góp phần vào sự phát triển chung của đất nước, nhất là từ sau năm 1986. Từ năm 1990 đến 2017, ngành du lịch nước nhà đã đạt được nhiều thành tựu. Năm 1990, Việt Nam đón 250.000 khách quốc tế, năm 2017 đón trên 13 triệu khách quốc tế, 73 triệu khách nội địa. Từ 1990 đến 2017, khách du lịch quốc tế tăng 52 lần, khách nội địa tăng 72 lần.

Tuy nhiên, theo báo cáo năng lực cạnh tranh quốc gia toàn cầu, Việt Nam xếp 67/136 nền kinh tế, đứng thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á. Một số hạn chế mà du lịch Việt Nam gặp phải là cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, nguồn nhân lực còn yếu, năng lực quản lý điểm đến còn thấp, phát triển du lịch chưa gắn với bảo vệ môi trường. Do đó, việc tái cơ cấu du lịch là cần thiết để nâng cao hiệu quả xúc tiến quảng bá.

Thứ trưởng Lê Quang Tùng cho biết, Chính phủ giao bộ ngành thực hiện một số đề án phát triển du lịch, trong đó xây dựng đề án cơ cấu lại ngành du lịch đến năm 2025 là nhiệm vụ đầu tiên phải làm. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại ngành du lịch. Đây là đề án được tham vấn chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp với nội dung chính là tập trung cơ cấu lại thị trường, phát triển nguồn nhân lực…

Đối với mục tiêu phát triển ngành du lịch Việt Nam đến 2025, ông Lê Quang Tùng cho biết, dự kiến tổng thu sẽ là 45 tỷ USD, đóng góp 10% GDP cả nước, tạo 6 triệu việc làm, trong đó có 2 triệu việc làm trực tiếp.

Để đạt mục tiêu này, Chính phủ đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, tồn đọng trong ngành Du lịch hiện tại… Tuy nhiên việc triển khai cụ thể với phương thức ra sao, công tác điều phối của du lịch cả nước như thế nào.. sẽ là vấn đề then chốt cần giải đáp trong thời gian tới.

Trong những năm qua, du lịch trong phạm vi toàn cầu tăng trưởng liên tục, trở thành ngành kinh tế hàng đầu, nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Tổ chức Du lịch Thế giới dự kiến, đến năm 2020 có 7,8 tỷ du khách trên toàn cầu, trong đó, châu Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.

Ông Trần Trọng Kiên cho hay, ý tưởng xây dựng một Diễn đàn cấp cao du lịch quốc gia đã được những người làm du lịch Việt Nam ấp ủ trong rất nhiều năm nay. Tuy nhiên, ý tưởng đó chỉ được thực hiện khi được Lãnh đạo chính phủ mà trực tiếp là Thủ tướng chính phủ chỉ đạo trực tiếp, cho phép và động viên thực hiện.. Qua đó, ông kỳ vọng, diễn đàn này sẽ trở thành sự kiện thường niên, góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển.

Diễn đàn cấp cao du lịch Việt Nam 2018 là sự kiện nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam ViEF do Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo.

Du Lịch Việt Nam Lọt Vào Tốp 10 Tăng Trưởng Của Thế Giới

Tổ chức Du lịch Thế giới thuộc Liên hợp quốc (UNWTO) vừa công bố danh sách các quốc gia tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới năm 2019, trong đó Việt Nam đứng thứ 7.

Du lịch Việt Nam phát triển vượt bậc

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng (tại Diễn đàn cấp cao du lịch Việt Nam diễn ra ngày 12-9-2019), du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển nhanh, mạnh với lượng du khách quốc tế tăng trưởng cao. Giai đoạn 2016-2018, tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch quốc tế đạt 12,8%/năm.

Năm 2016, Việt Nam đón 10 triệu lượt khách quốc tế, tăng 26% so với năm 2015, đóng góp trực tiếp đạt 6,96% vào GDP. Hai năm sau đón 15,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng 19,9% so với năm 2017, đóng góp trực tiếp ước đạt 8,5% vào GDP.

Nếu không có diễn biến bất thường, năm 2019 du lịch Việt Nam sẽ hoàn thành chỉ tiêu được Chính phủ giao, đón 18 triệu lượt du khách quốc tế. Trong 11 tháng của năm 2019, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt xấp xỉ 16,3 triệu lượt, tăng 15,4% so với cùng kỳ, trong khi đó lượng khách quốc tế đến châu Á-Thái Bình Dương tăng khoảng 6%, đến Đông Nam Á tăng khoảng 5%.

Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam cũng liên tục được cải thiện trên bảng xếp hạng của WEF, từ hạng 75/141 năm 2015 lên hạng 67/136 năm 2017, năm 2019 xếp hạng 63/140 nền kinh tế. Trong đó các nhóm chỉ số tăng hạng nhiều nhất: Mức độ mở cửa quốc tế (+15); sức cạnh tranh về giá (+13); hạ tầng hàng không (+11) so với năm 2017.

Việt Nam được bình chọn là Điểm đến du lịch hàng đầu châu Á; Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á; Điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á; Hội An được bình chọn là Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á và nhiều giải thưởng danh giá khác tại lễ trao Giải thưởng Du lịch thế giới năm 2019.

Hạ tầng ngành du lịch cũng được quan tâm, đầu tư, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách du lịch, nhất là khách du lịch cao cấp…

Nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (10-40%). Chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam không cao, trung bình hơn 1.000 USD cho một chuyến 9 ngày.

Theo ông Vũ Thế Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Du lịch Việt Nam, nguyên nhân là do sản phẩm du lịch của Việt Nam chưa hấp dẫn, thiếu gắn kết, các hoạt động giải trí, mua sắm, chăm sóc khách chưa đa dạng…”.

Ông cho biết: “Du lịch Việt Nam còn nhiều hạn chế và điểm nghẽn chưa được giải quyết triệt để, như: Công tác xúc tiến quảng bá chưa thực sự hiệu quả do hạn chế về nguồn lực, cơ chế vận hành, chưa thành lập Văn phòng xúc tiến du lịch ở nước ngoài, Quỹ hỗ trợ và phát triển du lịch chưa được vận hành và đi vào hoạt động; hạ tầng sân bay có xu hướng quá tải, chưa đáp ứng được tốc độ tăng trưởng cao về số lượng khách du lịch; chính sách thị thực nhập cảnh còn hạn chế so với các điểm đến cạnh tranh trực tiếp của du lịch Việt Nam như Thái Lan, Indonesia, Malaysia…

Tìm hướng đi mới

Đây là các phiên họp chuyên sâu về những vấn đề đang còn khó khăn, “nút thắt” của ngành du lịch Việt Nam, thu hút nhiều chuyên gia trong nước, quốc tế cùng “hiến kế”, chia sẻ kinh nghiệm.

Bên cạnh đó là giải pháp thực hiện tốt Đề án cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển lượng và về chất, tập trung khai thác các thị trường khách chi tiêu cao, lưu trú dài ngày; nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính chuyên nghiệp công tác xúc tiến quảng bá du lịch; thu hút mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia các hoạt động quảng bá. Phấn đấu cùng với khu vực tư nhân thành lập văn phòng xúc tiến du lịch ở các thị trường trọng điểm.

Trong đó có giải pháp tháo gỡ nút thắt về hạ tầng hàng không, nâng cao năng lực đón tiếp, chất lượng dịch vụ hàng không tại các sân bay để tạo thuận lợi nhất cho khách du lịch.

Đây là chuyên đề đặc biệt của năm 2019 nhằm đưa ra giải pháp đảm bảo tính bền vững cùng sức hút của du lịch Việt Nam.

Nhưng chưa bền vững và hiệu quả

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, năm 2019, du lịch chứng kiến nhiều bước tăng trưởng ấn tượng, nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ nhiều áp lực, thách thức với Chính phủ, các bộ, ngành cùng các doanh nghiệp vì sự tăng trưởng nóng lại chưa đi kèm với các yếu tố bền vững và hiệu quả.

Bài toán nâng cao năng suất lao động, ứng dụng các nền tảng công nghệ, liên kết và hợp tác theo chuỗi, tăng cường trách nhiệm xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường là những vấn đề rất nóng trong nhiều ngành nhưng với du lịch, dịch vụ và hàng không càng quan trọng

Còn với slogan “Vietnam Timeless Charms” (Việt Nam vẻ đẹp bất tận), có ý kiến đề cho rằng slogan này còn khá chung chung chưa thể hiện được đặc thù của du lịch Việt Nam; slogan của ngành du lịch phải có sức khái quát cao để có thể sử dụng trong nhiều thập kỷ sau đó.

Việc quan trọng là gợi mở và truyền đạt ý nghĩa của slogan và logo đến với đông đảo du khách. Slogan cần được phát triển ra nhiều nhánh phụ để thể hiện và làm rõ những đặc thù của du lịch Việt Nam.

Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam ra quốc tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của ngành du lịch Việt Nam. Công tác này dù được đánh giá là có chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do kinh phí hạn hẹp.

Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch Việt Nam đã ra đời, được coi là bước tiến lớn nhằm hỗ trợ công tác xúc tiến, quảng bá nhưng đến nay quỹ vẫn chưa thể vận hành. Về việc này, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng cho biết, đây cũng là một trong những ưu tiên của Chính phủ.

Mô hình của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch là hoàn toàn mới và đặc thù, không phải hoạt động theo quỹ ngân sách mà hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Nên quá trình xây dựng và vận hành quỹ gặp nhiều khó khăn, từ tổ chức bộ máy đến cơ chế vận hành. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phấn đấu đến năm 2020 sẽ cơ bản hoàn thiện cơ chế vận hành tổ chức bộ máy của quỹ…

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kỳ vọng các sáng kiến, đóng góp của các chuyên gia, nhà đầu tư chiến lược, doanh nghiệp trong, ngoài nước tại Diễn đàn cấp cao du lịch Việt Nam năm 2019 sẽ tạo ra sức sống mới cho ngành du lịch, tìm ra những hướng đi, cách làm hiệu quả, thiết thực để tạo sự bứt phá, bền vững, góp phần nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam./.