Top 12 # Tài Nguyên Du Lịch Tự Nhiên Vùng Bắc Bộ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Samthienha.com

Tài Nguyên Du Lịch Tự Nhiên Hue

TÀI NGUYÊN DU LỊCH TỰ NHIÊN1.

Địa hình

Địa hình thừa thiên huế khá phức tạp gồm nhiều dạng: vùng đồi núi, đồng bằng,biển. Cấu trúc của địa hình theo chiều ngang từ Đông sang Tây gồm:biển đầmphá, đồng bằng nhỏ hẹp, vùng đồi thấp và núi. Đại hình thừa thiên huế có cấutạo dạng bậc khá rõ rệt.-vùng đồi núi :Hệ thống búi của Thừa Thiên huế chiếm khoảng 75% diện tích của tỉnh, từ biêngiới Việt Lào và kéo dài đến thành phố Đà Nẵng, là bộ phận phía nam của dảiTrường Sơn Bắc. Dãy núi phía tây chạy theo hướng tây bắc-đông nam càng vềphía nam càng cao dần và bẻ quặt theo hướng tây-đông(dãy Bạch Mã). Độ caotrung bình từ 500m- 600m, độ cao này tăng dần về phía tây, phía nam và đôngnam.–

Vùng đồng bằng duyên hải:

Đồng bằng Thừa Thiên Huế điển hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích tụ, có

cồn cát, đầm phá. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 1.400km2.–

Vùng đầm phá:Là một hệ cảnh quan độc đáo của thừa Thiên Huế, vùng đầm phá có diệntích 22.040 ha, dài 68 km, bắt đầu từ cửa sông Ô Lâu phía bắc chạy songsong với bờ biển đến cửa Tư Hiền, chiều rộng từ 1 đến 6 km. Độ sâu tăngdần từ Tây sang Đông. Hiện nay sự lắng tụ phù sa, làm độ sâu của đầm pháđang có chiều hướng cạn dần. Ảnh hưởng của địa hình đến phát triển du lịch:Do ảnh hưởng của địa hình, đại bộ phạn dân cư của tỉnh Thừa Thiên Huếphân bố không đều. Miền núi là địa bàn cư trú của đồng bào thiểu số. Sựphân bố dân cư này làm cho du lịch tập trung phát triển hơn ở một sốvùng trọng điểm nhất định và hướng tới hình thức du lịch văn hóa, tìmhiểu các nền văn hóa của các dân tộc Việt Nam.Sự phân hóa của địa hình đã tạo nên nhiều vùng tự nhiên khá thuận lợicho phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng…Tuy nhiên địa hình vùng trung du nhỏ hẹp làm độ dốc giảm, gây ra hiệntượng xói mòn mạnh, nhất là trong mùa mưa lũ. Điều này cực kỳ nguy

hiểm đối với phát triển du lịch và việc xây dựng các cơ sở vật chât mangtính lâu dài, thu hút đầu tư quy mô lớn nhằm phục vụ du lịch.Khí hậuĐặc điểm chung của khí hậu Thừa Thiên Huế là nhiệt độ cao, độ ẩm lớn ,mưa theo mùa. Do vị trí địa lý và sự kéo dài của lãnh thổ theo vĩ tuyến, kếthợp với hướng địa hình và hoàn lưu khí quyển đã tác động sâu sắc đến việchình thành một kiểu khí hậu đặc trưng và tạo nên những hệ quả phức tạptrong chế độ mưa, chế độ nhiệt và các yếu tố khí hậu khác.Nhiệt độ trung bình hàng năm của Thừa Thiên huế khoảng 250C. Tổng lượngbức xạ nhiệt trung bình năm tăng dần từ Bắc vào Nam của tỉnh và dao độngtrong khoảng từ 110 đến 140 kcal/cm2 , ứng với hai lần mặt trời qua thiênđỉnh tổng lượng bức xạ có hai cực đại: lần thứ nhất vào tháng V và lần thứhai vào tháng VII, lượng bức xạ thấp nhất vào tháng 12. Cán cân bức xạnhiệt trung bình từ 75 đến 85 kcal/cm2 , ngay cả tháng lạnh nhất vẫn mangtrị số dương. Do tác động của vị trí, địa hình và hình dạng lãnh thổ, nhiệt độcó sự thay đổi theo không gian và thời gian:+ phân bố theo không gian : theo chiều Đông – Tây nhiệt độ vùng núi (Nam

Đông và A Lưới) trung bình năm thường chênh lệch với vùng đồng bằng từ00C đến 30C. Riêng trong mùa lạnh, sự phân hóa nhiệt sâu sắc hơn.+ phân bố theo thời gian : do sự tác động của gió mùa nên đã hình thanhfhaimùa với sự khác biệt về chế độ nhiệt rõ rệt.Mùa lạnh : là khoảng thời gian nhiệt độ trung bình trong ngày ổn định dưới200 C. Thời gian lạnh của Thừa Thiên Huế tùy theo vùng có thể kéo dài từ30 đến 60 ngày.Mùa nóng : là thời kỳ nhiệt độ trung bình ổn định trên 250C. Mùa nóng bắtđầu từ tháng IV đến hết tháng IX. Những tháng đầu mùa nhiệt độ tăng kháđều trên các vùng, nhiệt độ cực đại vào tháng VII và giảm dần cho đến thángI năm sau. Từ tháng Vcho đến tháng IX, hiệu ứng phơn Tây Nam đã làmnhiệt độ tăng cao, độ ẩm giảm thấp gây ra những đợt nóng kéo dài ảnhhưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và các hoạt động sản xuất nông nghiệp.Biên độ nhiệt : Thừa Thiên Huế có nhiệt độ trung bình hằng năm gần 100C.Đây là một điểm rất đặc biệt vì tính cách khắc nghiệt của khí hậu gần giốngvới những vùng lãnh thổ có vĩ độ cao hay của những lãnh thổ nằm sâu trongluc địa.

4.

Do sự tác động phối hợp giữa địa hình và hướng dịch chuyển của các khốikhí theo mùa , Thừa Thiên Huế có thời kỳ khô và ẩm bị lệch pha so với cảnước.+ Từ tháng IX đến tháng III độ ẩm không khí cao trên 90% trùng với mùamưa và thời gian hoạt động của khối không khí lạnh biến tính từ biển đôngtràn vào lãnh thổ+Hàng năm Thừa Thiên Huế nhận được một lượng mưa lớn, trung bình trên3000mm, song phân bố không đều. Mưa phần lớn tập trung vào tháng X vàXI, trong khoản thời gian này bão thường xuất hiện gây nên những cơn lũlớn. Năm 1953 (4937mm); năm 1975(3278mm) lụt vượt mức báo động 3với đỉnh lũ là 6m (kim long). Ảnh hưởng của khí hậu đến du lịch:Khí hậu của tỉnh Thừa Thiên Huế có sự thuận lợi nhất định cho việc pháttriển du lịch. Tuy nhiên , khí hậu có nhiều biến động khá phức tạp, hiệntượng lệch pha so với khí hậu cả nước đòi hỏi Thừa Thiên Huế phải có kếhoạch tổ chức các hoạt động du lịch phù hợp. Thời gian mưa kéo dàikhiến du lịch theo thời vụ ở Huế là rất rõ nét. Bên cạnh đó, theo thống kêmỗi năm có ít nhất một cơn bão đổ bộ trực tiếp vào lãnh thổ gây thiệt hạivà khó khăn rất lớn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.Thủy văn:Thừa Thiên – Huế có hệ thống sông ngòi khá dày đặc nhưng các sông đềunhỏ, độ dốc lớn. Phần lớn bắt nguồn từ phía đônn của trường sơn, chảy theohướng Tây – Đông, cửa sông hẹp. Tổng chiều dài các song chính chảy trênlãnh thổ của tỉnh là khoảng 300km trên đó hệ thống sông Hương chiếm đến60%. Nhìn chung, sông ngòi ở huế ngắn và dốc, ít có sông lớn. Các sông cósự chênh lệch rất lớn về dòng chảy trong năm. Tổng lượng nước trong batháng mùa lũ lớn gấp 2 lần tổng lượng nước trong 9 tháng mùa cạn. Diệntích các lưu vực sông không lớn, lớn nhất là sông Hương với diện tích lưuvực khoảng 1626 km2 Đánh giá:Với mạng lưới sông ngòi và đầm phá, Thừa Thiên Huế có thể nối liền cáchuyện và thành phố rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, phục vụ dulịch. Các cảng biển Thuận An, Chân Mây thuận lợi cho việc đón các dukhách quốc tế. Sông hương với những nét văn hóa đậm chất Huế đã vàđang thu hút một lượng khách không nhỏ mỗi năm.Sinh vật:

Thừa Thiên Huế có vị trí chuyển tiếp của 2 miền khí hậu Bắc và Nam đãhình thành thảm thực vật rừng nhiệt đới đa dạng, hội tụ nhiều loại cây: câybản địa như lim, gõ, kiền,chò…(cây họ đậu phương Bắc) cây di cư như dẻ,re, thông, bàng và các cây họ dầu phương Nam…Diện tích rừng chiếmkhoảng 57% đất tự nhiên, độ che phủ 55%(2008).Động vật thiên nhiên của Thừa Thiên Huế khá phong phú, có giá trị kinh tếcao.+ Động vât rừng: ngoài những động vật phổ biến trong rừng như: khỉ , hươu,nai, công, gà rừng…nhiều động vật quý hiếm đã được phát hiện ở NamĐông, Phú Lộc, A Lưới như: voi, hổ, trĩ, sao, gà lôi, chồn bay, gấu chó…+Thủy sản: với gần 126 km đường bờ biển, 22.000 ha đầm phá và một hệsông ngòi phong phú, Thừa Thiên Huế có lượng thủy sản đa dạng với nhiềuloại quý hiếm có giá trị kinh tế cao: sò huyết, mực, tôm, rau câu… Đánh giá:Hệ thống sinh vật phong phú góp phần tạo nên cảnh quan môi trườngsinh thái và cảnh quan du lịch của vùng, vườn quốc gia Bạch Mã có khíhậu mát mẻ cùng sự đa dạng sinh vật đã trở thành một trung tâm du lịchsinh thái rất hấp dẫn.TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂNTài nguyên du lịch nhân văn của Thừa Thiên Huế có nhiều loạihình phong phú và đa dạng rất khác nhau. Hệ thống kiến trúc thànhquách, cung điện, chùa, di sản văn hóa (được công nhận là di sản vănhóa thế giới). Tài nguyên phi vật thể: lễ hội, ẩm thực, làng nghề, nhãnhạc cung đình Huế (di sản văn hóa phi vật thể)..các tài nguyên đó đã tạocho Thừa Thiên Huế có tiềm năng to lớn để trở thành trung tâm du lịchcủa cả nước.Nét đặc sắc là sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian và văn hóa cungđình. Thừa Thiên-Huế là một trong những trung tâm du lịch văn hóa củacủa Việt Nam, là nơi duy nhất còn giữ lại được một kho tàng sử liệu vậtchất đồ sộ, một di sản văn hóa vô cùng phong phú với hàng trăm côngtrình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng.Huế là “một kiệt tác về thơ – kiến trúc đô thị”. Vì lẽ đó mà cuối năm1993, UNESCO đã chính thức công nhận Huế là một di sản văn hóa thếgiới.1.Các di tích lịch sử văn hóa:

Xứ Huế vốn nổi tiếng bởi những công trình lăng tẩm, đền đài, cung điệnnổi tiếng và là kinh đô xưa của triều đại Nguyễn kéo dài gần 2 thế kỷ.Trải qua thời gian Huế vẫn phần nào giữ được những nét cổ kính và trầmlắng và vô cùng quyến rũ. Các khu di tích rất đặc sắc tại đây có thể kểđến như: Chùa Thiên Mụ, Quần thể Cố Đô HUẾ…Tên di tích

Đặc điểm

Chùa Thiên Mụ

Chùa nằm cách trung tâm thànhphố huế khoảng 5km, trên đồi HàKhê, tả ngạn song Hương, xãHương Long. Trước các điện,quanh chùa là các vườn hoa câycảnh xanh tươi, rực rỡ. phía saucùng là vườn thông tĩnh mịch,phong cảnh nên thơ. Chùa bị hưhỏng nặng năm 1943. Từ năm1945, Hòa thượng Thích Đôn Hậuđã tổ chức công cuộc đại trùng tukéo dài hơn 30 năm.Quần thể di tích Cố Đô Huế nằmdọc bên bờ sông Hương thuộcthành phố Huế và một vùng phụcận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế làtrung tâm văn hóa, chính trị, kinh tếcủa tỉnh, là cố đô của Việt Nam thờiphong kiến dưới triều nhà Nguyễn,từ năm 1802 đén 1945. Bên bờ Bắccủa con song Hương, hệ thống kiếntrúc biểu thị cho quyền uy của chếđộ trung ương tập quyền Nguyễn làba tòa thành: Kinh thành Huế,Hoàng thành Huế, Tử cấm thànhHuế, lồng vào nhau được bố tríđăng đối trên một trục dọc xuyênsuốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. hệthống thành quách ở đây là mộtmẫu mực của sự kết hợp hài hòanhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến

Quần thể di tích Cố Đô Huế(di sản văn hóa thế giới)

trúc Đông và Tây, được đặt trongmột khung cảnh thiên nhiên kỳ thúvới nhiều yếu tố biểu tượng sẵn cótự nhiên đến mức người ta mặcnhiên xem đó là những bộ phận củakinh thành Huế – đó là núi NgựBình, dòng Hương giang, cồn GiãViên, cồn Bộc Thanh… Hoàngthành giới hạn bởi một vòng tườngthành gần vuông với mỗi chiều xấpxỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độcđáo nhất thường được lấy làm biểutượng của cố đô: Ngọ Môn, chínhlà khu vực hành chính tối cao củatriều đình Nguyễn. Bên trongHoàng thành, hơi dịch về phía sau,là Tử cấm thành, hơi dịch về phíasau, là Tử cấm thành – nơi ăn ởsinh hoạt của Hoàng Gia.

Đánh giá:Các địa điểm di tích lịch sử, văn hóa nêu trên là những di tích nổi bật thuhút đông đảo du khách tham quan, vãn cảnh. Đa số các di tích lịch sử,văn hóa tâp trung ở thành phố Huế. Các di tích còn tồn tại cho tới ngàynay đều là những di tích, danh thắng nổi tiếng, những công trình có giá trịphục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, học tập của các đối tượngkhách trong và ngoài nước. Đây là một điều kiện thuận lợi để phát triểnloại hình du lịch văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh.2. Lễ hội:Thừa Thiên Huế là một vùng đất có truyền thống văn hóa, tuy không lâuđời như ở miền Bắc, nhưng cũng có hơn 700 năm lịch sử. Từ khi chúaNguyễn đặt thủ phủ tại đây cho đến khi nhà Nguyễn cáo chung (1945),có thể nói Huế là nơi hội tụ những con người hoạt động văn hóa có tầmcỡ, là nơi gặp gỡ của các luồng tư tưởng Đông Tây Kim Cổ. Văn hóaHuế có truyền thống từ Bắc tràn vào, theo những lưu dân lập nghiệp trênvùng đất mới. Tại đây còn tồn tại dân tộc Chăm với nền văn hóa Ấn Độ.Và sau này văn hóa phương Tây cũng có cơ hội thâm nhập vào từ thời

chúa Nguyễn . Các lễ hội truyền thống được duy trì, phát triển cũng từnhững nguồn văn hóa ấy.Lễ hội các loại là một nhu cầu sinh hoạt văn hóa của con người ThừaThiên Huế đã trở thành truyền thống. Nhìn tổng quát về lễ hội và sự thamgia lễ hội của cư dân vùng này, ta sẽ thấy lễ hội ở Thừa Thiên Huế tuykhông phong phú như Miền Bắc, nhưng cũng khá đa dạng, có hai loại lễhội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình phản ánh sinhhoạt lễ nghi của triều Nguyễn . Phần lớn chỉ chú trọng về “lễ” hơn “hội”.Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, có thể kể đến một số lễ hộitiêu biểu như sau: lễ hội Huệ Nam (điện Hòn Chén) hay còn gọi là lễrước sắc nữ thần Thiên Y A Na theo tín ngưỡng của người Chamwpaxưa… Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích nư đuathuyền, kéo co, đấu vật… còn được tổ chức và thu hút rất đông ngườixem.Hội đua ghe truyền thống: Hội đua ghe truyền thống tỉnh Thừa Thiên Huế làmột lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam năm1975. Hội được tổ chức trong một ngày nhằm ngày lễ Quốc kanhs 29(dương lịch). Địa điểm đua là bờ Nam song Hương trước trường Quốc học.Hội nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tàitrên song nước, qua đó rèn luyện tăng cường bảo vệ sức khỏe và tạo khôngkhí vui vui tươi lành mạnh cho nhân dân .Hội vật làng sình: Vật võ cũng là một hình thức để tưởng nhớ ngài khai canhlàng đã truyền dạy dân làng nghề vật. Nên đến ngày giỗ Ngài, dân làng tổchức vật võ.…….Festival Huế: tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đén nay Festival Huế tổchức được 7 lần (2000,2002,2004,2006,2008,2010,2012…). Đây là sự kiệnvăn hóa lớn có quy mô quốc gia tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trongđời sống của người dân Huế. Là điều kiện quan trọng để xây dựng Huếthành phố Festival cuả Việt Nam. Đánh giá:Thừa Thiên Huế có khá nhiều lễ hội lớn với các loại hình khác nhau: lễhội vui chơi giải trí, lệ hội cầu ngưu, lễ hội đua thuyền… Những lễ hộinày nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa vùng miền, và chúng góp phần thuhút đông đảo các khách du lịch từ các địa phương khác trong cả nướccũng như khách du lịch nước ngoài.

3. Văn hóa , ẩm thực:Văn hóa vật thể: quần thể di tích Huế được UNESCO công nhận là di sảnvăn hóa thế giới. Ngoài ra, Huế còn quê hương của nhiều công trình kiếntrúc tôn giáo độc đáo.Văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế cũng được UNESCO côngnhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Ngoài ra, Huế còn bảo tồnđược rất nhiều phong tục tập quán thông qua các lễ hội dân gian được tổchức hàng năm như: lễ hộ điện Hòn Chén, hội võ làng Sình…

Ẩm thực đặc sắc: Huế còn lưu giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, cócả những món ăn ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngựthiện có trên vài chục món thuộc loại cao lương mỹ vị, được chuẩn bị vàtổ chức rất công phu, tỷ mỷ, cầu kỳ. Các món ăn dân dã rất phổ biếntrong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng trăm món được chếbiến khéo léo hương vị quyến rũ màu sắc hấp dẫn , coi trọng phần chấthơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởngthức tinh tế.Làng nghề truyền thống:Làng nghề nón bài thơ Tây Hồ.Làng nghề phường đúc đồng.Làng nghề làm hoa giấy Thanh Tiên.Tranh làng sình.…….

Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Vùng Tây Bắc

Cánh đồng lúa Cao Phạ (Mù Cang Chải, Yên Bái) là điểm thu hút nhiều khách du lịch đến tham quan. Ảnh: THANH CHƯƠNG

Chiếm một phần ba diện tích cả nước với số dân gần 11 triệu người, Tây Bắc là nơi sinh sống của hơn 30 dân tộc anh em với không gian văn hóa rộng lớn, phong phú. Nơi đây được thiên nhiên ban tặng nhiều cảnh quan hùng vĩ và hệ sinh thái đa dạng như cao nguyên đá Đồng Văn, ruộng bậc thang Mù Căng Chải, Hoàng Su Phì, đỉnh Phan-xi-păng, đèo Mã Pí Lèng…; và nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Đền Hùng, Đền Thượng, Khu di tích Pác Bó, Tân Trào, ATK Định Hóa… Bên cạnh đó, một nền văn hóa phong phú đậm đà bản sắc các dân tộc được thể hiện qua những phong tục tập quán: lễ hội Lồng Tồng, Chợ Tình Khau Vai, Xên Bản, Xên Mường…; qua các điệu dân ca, dân vũ như múa sạp, múa xòe, hát then…; qua kiến trúc nhà ở, trang phục, nhạc cụ… Tây Bắc còn là nơi sở hữu hai di sản văn hóa phi vật thể của thế giới là hát Xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Có thể nói, mảnh đất trù phú này vẫn đang tiềm ẩn nhiều bất ngờ, thú vị. Những năm qua, nhờ sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp, ngành và địa phương, du lịch Tây Bắc đã có sự tăng trưởng đáng mừng về lượng khách quốc tế và nội địa với mức tăng trung bình hơn 10%/năm. Năm 2013, số lượt khách quốc tế đến Tây Bắc đạt 1,2 triệu lượt (chiếm 16% trong 7,57 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam, tăng gần ba lần so với năm 2005); lượng khách nội địa đạt hơn 6,5 triệu lượt trong tổng số 35 triệu lượt khách du lịch nội địa cả nước. Năm 2014, Tây Bắc đón 8,7 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 1,5 triệu lượt. Năm 2015 số khách du lịch đạt 8,9 triệu lượt, khách quốc tế đạt 1,6 triệu lượt.

Những năm qua, dù sản phẩm du lịch các địa phương đã hoàn thiện hơn nhưng giao thông trong vùng còn chưa đồng bộ. Mạng lưới giao thông đường bộ hiện nay đã trải nhựa, thông suốt nhưng chất lượng không đều. Các địa phương cũng không quan tâm đến đường thủy trên sông Gâm, sông Năng, sông Đà dài hàng trăm km. Đây là rào cản lớn đối với sự phát triển của du lịch địa phương, đồng thời làm ảnh hưởng đến sự hợp tác chung của cả khu vực, điều này cần sớm khắc phục. Bà Trần Thị Việt Hương – Giám đốc Ban tiếp thị Vietravel cho biết, khách đi tua Tây Bắc thông qua Vietravel có sự tăng trưởng mạnh trong những năm qua. Mùa thấp điểm mỗi tuần có hai, ba đoàn; mùa cao điểm dễ xảy ra hiện tượng cháy phòng. Do đó, doanh nghiệp mong muốn có mức giá ổn định hơn. Địa phương cũng cần tăng cường đầu tư về phòng khách sạn ở mức hai, ba sao là phù hợp nhất. Về truyền thông, Tây Bắc nên có những phim chuyên đề về thiên nhiên, ẩm thực, con người để doanh nghiệp mang đi chiếu tại các hội chợ quốc tế; phối hợp các đại sứ quán nhằm giới thiệu văn hóa vùng Tây Bắc tới các thị trường ngoài nước.

Vấn đề đồng bộ hạ tầng, liên kết phát triển là những nội dung sẽ sớm được thực hiện với sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền và doanh nghiệp; nhưng làm thế nào để phát triển du lịch mà vẫn giữ được văn hóa bản địa, môi trường tự nhiên trong cuộc sống của người dân mới là thách thức. Đây cũng là băn khoăn của Tổng Cục trưởng Du lịch Nguyễn Văn Tuấn, bởi theo ông, văn hóa bản địa vùng là cơ sở để địa phương xây dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng, từ đó xây dựng tuyến liên kết, tạo động lực phát triển du lịch vùng. Tây Bắc cần chú trọng phát triển loại hình du lịch homestay để không phá vỡ không gian của người dân, thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu về du lịch Tây Bắc và bộ sản phẩm; từ đó thu hút các nhà đầu tư chiến lược. Đặc biệt, đầu tư cho hạ tầng Tây Bắc được phát triển, đồng bộ là điều đáng quan tâm.

Vùng Trung Du Và Miền Núi Bắc Bộ

ThienNhien.Net – Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là nơi hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc, mang đậm các đặc trưng cơ bản về đất nước và con người Việt Nam. Nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Đền Hùng, Điện Biên, Sa Pa, Ba Bể, Bản Giốc… đã và đang là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Theo Tiến sĩ Phạm Quang Tiến, Viện Khoa học và Giáo dục Việt Nam: vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có những nét riêng biệt không hề có ở các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta. Vùng này bao gồm nhiều dãy núi trùng điệp, hùng vĩ như dãy núi Hoàng Liên Sơn được mệnh danh là “mái nhà của Đông Dương”, với đỉnh cao nhất là Phanxipang 3.142m và hàng chục đỉnh núi khác có độ cao trên dưới 3.000m.

Những dãy núi nơi đây có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc, vì thế tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và di tích tự nhiên bao gồm các thác nước, những thung lũng mở rộng và vực thẳm. Ngoài Sa Pa là thị trấn du lịch nổi tiếng nằm ở độ cao 1.500m thuộc tỉnh Lào Cai, các địa danh khác như cao nguyên Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La)…được ví như bức tranh tuyệt tác vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng, có đầy đủ mọi điều kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng các khu du lịch miền núi.

Bên cạnh đó, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ còn có những rừng cọ, đồi chè, vườn cây ăn quả, những đỉnh đồi lượn sóng theo thung lũng và cánh đồng ngát xanh men theo các dòng sông đỏ nặng phù sa, tạo nên một cảnh sắc thân thuộc gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam. Bằng vẻ hùng vĩ cộng với không gian khoáng đạt, cảnh vật tĩnh mịch, êm đềm và môi trường trong lành, vùng này đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ và cảm xúc sâu đậm cho mọi du khách.

Mặt khác, nơi đây còn có thêm những hệ thống hang động của địa hình Kaxto thuộc vùng núi đá vôi. Các nhà khoa học đã phát hiện hơn 20 hang có giá trị khảo cổ thời kỳ đồ đá, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu và Hòa Bình. Ngoài giá trị thiên nhiên, các hang động này còn có các sự tích hoặc gắn với các sự kiện lịch sử như Hang Pắc Bó (Cao Bằng).

Du lịch sinh thái tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên vốn rất phong phú gồm 49 khu bảo tồn tự nhiên, 5 vườn quốc gia và 20 khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường, với những danh lam thắng cảnh hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Thác Bà, lòng hồ sông Đà, Thác Bản Giốc, Thác Bạc…

Đặc biệt, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ rất có ý nghĩa về lịch sử cội nguồn. Nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng như Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An toàn khu ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử Điện Biên Phủ… đang tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc trên vùng đất này phát triển mạnh về du lịch để xóa nghèo vươn lên làm giàu bền vững.

Bảo Vệ Môi Trường Và Tài Nguyên Thiên Nhiên Trong Hoạt Động Du Lịch

Việt Nam biển bạc rừng vàng với những bãi biển trong xanh dài bất tận, những cánh rừng lâu năm cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lịch sử văn hóa lâu đời. Trong đó, Vĩnh Phúc may mắn có được nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật,… có khí hậu và không khí trong lành chính là tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch. Cùng với việc khai thác và quy hoạch các khu, điểm du lịch thì song song với đó cũng cần phải có kế hoạch bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên để gìn giữ cho đời sau.

Vĩnh Phúc ở đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc vùng trung du, chuyển tiếp giữa rừng núi và đồng bằng chia thành ba dạng địa hình rõ nét: đồng bằng, trung du và miền núi. Rừng rậm, núi cao, hệ thống sông suối và thác gềnh quanh co, đó đây điểm xuyết một vạt rừng, một mặt đầm,… làm cho cảnh quan thiên nhiên nhiều hình nhiều vẻ, cảnh đẹp tạo nên bộ mặt kì thú riêng của tỉnh, vừa nghiêm trang, vừa thơ mộng, vừa trữ tình. Những năm gần đây, khách du lịch đến với Vĩnh Phúc tăng nhanh, điểm đến của du khách đã không chỉ dừng lại tại các khu du lịch nghỉ dưỡng như Tam Đảo, Flamingo Đại Lải Resort,… Khám phá thiên nhiên và trải nghiệm những cảm giác mới lạ đang là xu hướng du lịch của đông đảo giới trẻ, đặc biệt, Vĩnh Phúc có hệ thống thác, suối phong phú, đa dạng, nhiều điểm du lịch mới chưa đc khai thác, vẫn giữ được nét hoang sơ tự nhiên, đây chính là tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy nhiên, phát triển du lịch cũng là nguyên ngân không nhỏ ảnh hưởng đến môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Thác Ba Ao – điểm đến được ưa thích bởi thiên nhiên còn hoang sơ trong lành

Về mặt tích cực, du lịch phát triển tác động rất lớn đến môi trường tự nhiên như: Tăng hiệu quả sử dụng đất nhờ sử dụng quỹ đất còn bỏ trống hoặc sử dụng không hiệu quả; giảm sức ép do khai thác tài nguyên quá mức, cải thiện các điều kiện về khí hậu, làm tăng mức độ đa dạng sinh học…, du lịch có thể giúp làm sạch môi trường thông qua các chương trình quy hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng.

Bên cạnh những mặt tích cực, du lịch cũng đem đến những tác động tiêu cực cho môi trường khi tốc độ phát triển du lịch quá nhanh trong điều kiện nhận thức của các chủ thể tham gia vào hoạt động du lịch hạn chế, công cụ quản lý nhà nước về môi trường còn hạn chế, thiếu phương tiện xử lý môi trường, thiếu kinh phí…Đối với môi trường tự nhiên, du lịch làm tăng áp lực về chất thải, nước thải sinh hoạt; tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, nước, các nguồn nước ngầm. Tuy được coi là ngành “công nghiệp không khói”, nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm không khí thông qua phát, xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền.

Bảo vệ môi trường du lịch là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình phát triển du lịch mà các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư, các đơn vị kinh doanh du lịch kể cả khách du lịch phải nhìn nhận đúng mới có những hành động đúng để cùng phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường du lịch.

Đối với cộng đồng địa phương, là những người chủ sở hữu các nguồn tài nguyên, họ có quyền tham gia và hưởng lợi ích hợp pháp từ hoạt động du lịch. Đồng thời, họ cũng có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch, bản sắc văn hoá địa phương; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường; khôi phục và phát huy các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân gian, ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương.

Đơn vị du lịch lữ hành cần tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường ở các khu, điểm du lịch và trên các tuyến du lịch; tích cực tham gia bảo vệ môi trường tại nơi doanh nghiệp tổ chức chương trình du lịch, khắc phục hậu quả do sự cố tác động đến môi trường, khuyến khích và hướng dẫn khách du lịch tự mang rác đến địa điểm tập kết theo quy định. Khách du lịch phải tuân thủ các quy định và chỉ dẫn về bảo vệ môi trường, có ý thức giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, không có những hành vi làm ảnh hưởng đến cảnh quan…

Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Mỗi cá nhân đều phải có trách nhiệm với tương lai của các thế hệ sau này. Hãy đối xử tốt với thiên nhiên, sống thân thiện với môi trường, ta sẽ tận hưởng được những giây phút thư giãn, thoải mái trong bầu không khí trong lành, được tận hưởng những cảnh đẹp từ thiên nhiên.

Linh Trang