ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THÂN TRỌNG THỤY
DU LỊCH KHÁNH HÒA:TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Danh mục các từ và các cụm từ viết tắt i Danh mục các bảng biểu ii Danh mục các bản đồ iii MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 1 3. Phạm vi nghiên cứu 2 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4 6. Những đóng góp chính của đề tài 7 7. Cấu trúc luận văn 7 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 8 1.1. Cơ sở lý luận 8 1.1.1. Một khái niệm cơ bản về du lịch 8 1.1.2. Chức năng của du lịch 14 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch 16
1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển du lịch 23 1.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá nguồn lực phát triển du lịch 24 1.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá thực trạng phát triển du lịch 25 1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch 28 1.2.1 Thực tiễn veà hoạt động du lịch Việt Nam 28 1.2.1.1 Khách du lịch 28 1.2.1.2.Doanh thu 30 1.2.1.3.Cơ sở lưu trú 31 1.2.1.4.Nguồn nhân lực phục vụ du lịch 31 1.2.1.5.Xúc tiến quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch 32 1.2.2 . Thực tiễn phát triển du lịch vùng du lịch duyên hải Nam Trung Bộ 32 Tiểu kết chƣơng 1 36
Chƣơng 2. TIỀM NĂNG & THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH KHÁNH HÒA 37 2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 37 2.1.1. Vị trí địa lí 37 2.1.2. Tài nguyên du lịch 37 2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 37 2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 47 2.1.3. Cơ sở hạ tầng 59 2.1.3.1 Mạng lưới giao thông 59 2.1.3.2.Hệ thống Cấp, thoát nước 61 2.1.3.3.Hệ thống cấp điện 61 2.1.3.4.Hệ thống thơng tin lin lạc 61 2.1.4. Các điều kiện kinh tế -xã hội khác 61 2.1.4.1.Chính sách phát triển du lịch 61 2.1.4.2. Tình hình phát triển kinh tế -xã hội 62 2.2. Thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 63 2.2.1. Khái quát chung về du lịch Khánh Hòa 63 2.2.2. Vị trí của du lịch Khánh Hòa trong nền kinh tế của Tỉnh 64 2.2.3. Thực trạng phát triển du lịch theo ngành 65 2.2.3.1. Nguồn khách 65 2.2.3.2. Doanh thu 68 2.2.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật 69 2.2.3.4. Lao động 71 2.2.3.5. Hợp tác và đầu tư 72 2.2.3.6.Xúc tiến, quảng bá du lịch 73 2.2.4. Thực trạng phát triển du lịch theo lãnh thổ 74 2.2.4.1. Điểm du lịch 74 2.2.4.2. Tuyến du lịch 75 2.2.4.3. Cụm du lịch 77 2.2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 79
Tiểu kết chƣơng 2 82 Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH KHÁNH HÒA ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030 83 3.1. Các định hƣớng phát triển du lịch 83 3.1.1. Định hướng chung 83 3.1.1.1.Quan điểm và mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa tới năm 2020 và tầm nhìn đến đến năm 2030 83 3.1.2.Căn cứ của định hướng 86 3.1.3. Định hướng cụ thể 87 3.1.3.1. Theo ngành 87 3.1.2.2. Theo lãnh thổ 95 3.2. Các giải pháp phát triển du lịch Khánh Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến Năm 2030 102 3.2.1. Nhóm một số giải pháp chung phát triển du lịch Khánh Hòa 102 3.2.1.1 Giải pháp về công tác quy hoạch du lịch 102 3.2.1.2.Giải pháp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch 102 3.2.1.3.Giải pháp tăng cường công tác xúc tiến quảng bá du lịch, hợp tác liên kết vùng ,tìm kiếm và mở rộng thị trường 103 3.2.1.4.Giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực 105 3.2.1.5. Giải pháp bảo vệ tài nguyên du lịch và phát triển bền vững 106 3.2.1.6.Giải pháp về đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng KHCN và hợp tác quốc tế 107 3.2.1.7 Giải pháp về công tác tổ chức quản lý 108 3.2.1.8. Giải pháp về thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch 108 3.2.2.Nhóm giải pháp hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa 109 3.2.2.1.Giải pháp chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường 109 3.2.2.2.Giải pháp tăng cường xã hội hóa phát triển du lịch 109 3.2.2.3. Giải pháp về liên kết cộng đồng địa phương 110 3.2.2.4. Giải pháp về tăng cường quảng cáo, khuyến mại 110 Tiểu kết chƣơng 3 111 KẾT LUẬN 112
TSS TCLT TCLTDL TNDL TP TX UNWTO UBND WTO VDLDHNTB Cơ sở vật chất – kỹ thuật Công ty trách nhiệm hữu hạn Đánh giá tác động môi trường Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (International Union for conservation of Nature) Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) Hội đồng nhân dân Khu nghỉ mát Quốc lộ Hội họp-Khen thưởng-Hội nghị/Hội thảo-Sự kiện/Hội chợ (Meetings-Incentives-Congresses/Conventions-Events/Exhibition) Chất rắn lơ lửng Tổ chức lãnh thổ Tổ chức lãnh thổ du lịch Tài nguyên du lịch Thành phố Thị xã Tổ chức du lịch thế giới (United Nations World Tourism Organization) Ủy ban nhân dân Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) Vùng du lịch Nam Trung bộ Sở VH-TT&DL: Sở Văn hóa , thể thao & du lịch
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1.Chỉ tiêu số lượng khách du lịch cả nước giai đoạn 2000 -2011 30 Bảng 1.2. Đóng góp du lịch vào GDP cả nước giai đoạn 2000 -2010 31 Bảng 1.3. Số lao động trong ngành du lịch Việt Nam giai đoạn 2000 -2010 32 Bảng 1.4 Khách du lịch đến vùng DH Nam Trung Bộ giai đoạn 2000 -2010 34 Bảng 1.5 Số lao động trong ngành du lịch vùng DHNTB giai đoạn 2000 -2010 35 Bảng 2.1. Số lượng di tích cấp tỉnh phân theo đơn vị hành chính huyện của tỉnh Khánh Hòa 50 Bảng 2.2. Di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh được xếp hạng quốc gia của Khánh Hòa 51 Bảng2.3: Quy mô và cơ cấu GDP tỉnh Khánh Hòa phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2000 – 2010 (Giá thực tế) 64 Bảng 2.4. Lượng khách du lịch đến Khánh Hòa thời kỳ 2000 -2011 66 Bảng 2.5. So sánh lượng khách du lịch đến Khánh Hòa với các tỉnh lân cận 68 Bảng 2.6. Doanh thu ngành du lịch Khánh Hòa thời kỳ 2000 – 2011 69 Bảng 2.7. Hiện trạng cơ sở lưu trú của Khánh Hòa giai đoạn 2000 – 2011 70 Bảng 2.8. Số lao động trong ngành du lịch Khánh Hòa giai đoạn 2000 -2010 71 Bảng 3.1. Dự báo khách du lịch đến Khánh Hoà 87 Bảng 3.2. Dự kiến chi tiêu trung bình mỗi ngày của một du khách đến Khánh Hòa 88 Bảng 3.3. Dự báo cơ cấu chi tiêu của khách du lịch 88 Bảng 3.4. Dự báo thu nhập du lịch của tỉnh Khánh Hoà 89 Bảng 3.5. Dự báo chỉ tiêu GDP và vốn đầu tư cho du lịch tỉnh Khánh Hòa 90 Bảng 3.6. Dự báo nhu cầu phòng lưu trú của du lịch Khánh Hòa 91 Bảng 3.7. Dự báo nhu cầu lao động trong du lịch của Khánh Hòa 92 Bảng 3.8. Dự báo khách, nhu cầu vốn đầu tư du lịch của các cụm du lịch 101 DANH MỤC BIỂU ĐỒ 1. Biểu đồ 1.1: Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 29 2. Biểu đồ 1.2: Khách du lịch nội địa giai đoạn 2000 – 2010 30 DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ 1. Bản đồ hành chính tỉnh Khánh Hòa . 38 2. Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Khánh Hòa. 41 3. Bản đồ thực trạng hoạt động du lịch tỉnh Khánh Hòa. 64 – 1 – MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn 52 năm hình thành và phát triển, đến nay du lịch Việt Nam đã có những thành công nhất định và trở thành ngành kinh tế có vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, năm 2011 mang lại nguồn thu trên 6,2 tỷ USD/năm, góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế”[75] Sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành du lịch trong thời gian qua đã góp phần làm tăng tỷ trọng GDP trong ngành dịch vụ, tăng thu ngoại tệ, tạo thêm nhiều việc làm, xóa đói giảm nghèo, khôi phục nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống, truyền thống văn hóa, bộ mặt đô thị nhiều địa phương được tô điểm ngày càng đẹp hơn đã tác động tổng hợp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của nhiều vùng, địa phương trong cả nước Khánh Hòa là một tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, hội đủ các dạng địa hình cơ bản:vùng núi bán sơn địa, đồng bằng duyên hải, biển, bờ biển và các đảo, quần đảo. Khánh Hòa như hình ảnh của đất nước Việt Nam thu nhỏ, có rừng núi, đồng bằng, miền ven biển duyên hải. Đặc biệt với đường bờ biển dài 385km, với nhiều bãi tắm đẹp, cùng nhiều cảnh đẹp và truyền thống văn hóa lâu đời, đã đem lại cho Khánh Hòa một tiềm năng to lớn để phát triển dịch vụ,du lịch. Tuy nhiên, trong những năm qua, sự phát triển du lịch Khánh Hòa vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có và đang đứng trước những thách thức mới. Đó là việc khai thác, quản lý các nguồn tài nguyên du lịch, sản phẩm còn đơn điệu, chất lượng còn nhiều hạn chế. Điều đó làm ảnh hưởng đến thương hiệu, doanh thu du lịch và sức thu hút du khách đến với Khánh Hòa, nhất là khách du lịch quốc tế Xuất phát từ những thực tiễn đó và để hiểu thêm điều kiện, khả năng, thực trạng du lịch của tỉnh Khánh Hòa, tôi đã lựa chọn đề tài “Du lịch Khánh Hòa tiềm năng, thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đánh thức được tiềm năng, tìm được hướng đi mới cho ngành du lịch Khánh Hòa trong xu thế hội nhập giữa các vùng, các khu vực và quốc tế 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài *Mục tiêu: Trên cơ sở vận dụng lí luận và thực tiễn phát triển du lịch của thế giới và Việt Nam, luận văn tập trung đánh giá các tiềm năng và phân tích thực trạng phát – 2 – triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2000 -2010. Từ đó đề xuất các giải pháp phát triển đến năm 2015và tầm nhìn đến năm 2030 nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng phong phú và đa dạng của du lịch Khánh Hòa, hướng đến mục tiêu phát triển có hiệu quả và bền vững. * Nhiệm vụ của đề tài luận văn: – Tổng quan những vấn đề lí luận và cơ sở thực tiễn về pht triển du lịch của thế giới và ở Việt Nam để vận dụng vào nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Khánh Hòa. – Kiểm kê, đánh giá tiềm năng du lịch ở các địa phương tỉnh Khánh Hòa và phân tích thực trạng phát triển du lịch của tỉnh giai đoạn 2000 -2010. Từ đó làm sáng tỏ những lợi thế so sánh và hạn chế đối với việc tổ chức và phát triển du lịch của tỉnh – Đề xuất các giải pháp khả thi phát triển du lịch đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2030 nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng và tài nguyên du lịch của tỉnh Khánh Hòa. 3. Phạm vi nghiên cứu *Về nội dung Đề tài tập trung đánh giá tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, các điều kiện phát triển du lịch và thực trạng hoạt động du lịch theo hai khía cạnh ngành và lãnh thổ(các tuyến, điểm, cụm, khu du lịch và trung tâm du lịch của tỉnh Khánh Hòa) *Về phạm vi lãnh thổ Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ địa giới hành chính tỉnh Khánh Hòa (gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện). Ngoài ra đề tài còn mở rộng nghiên cứu sang một số tỉnh lân cận để thấy được mối liên hệ so sánh giữa các tỉnh, đặc biệt là các tỉnh trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu nên đề tài chưa thể hiện cụ thể tình hình du lịch của huyện đảo Trường Sa. *Về thời gian Đề tài tập trung thu thập số liệu, điều tra, nghiên cứu, phân tích nguồn số liệu trong giai đoạn từ năm 2000 – 2010; dự báo đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2030. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ở nước ngoài Từ khi du lịch xuất hiện và khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong đời sống kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia, khu vực. Do đó Du lịch đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới, dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau – 3 – Theo Nguyễn Minh Tuệ [55], những nghiên cứu đầu tiên của các nhà địa lí du lịch được tiến hành ở Đức từ năm 1930. Tiếp đó là các công trình đánh giá các tổng thể tự nhiên phục vụ giải trí của Mukhina(1973), nghiên cứu sức chứa và sự ổn định của các điểm du lịch của Khadaxkia (1972) và Sepfer(1973), các nhà địa lý và cảnh quan học của của trường Đại học tổng hợp Matxco7va như E.D Xmirnova, V.B.Nhefedova …đã nghiên cứu các vùng cho mục đích nghỉ dưỡng trên lãnh thổ Liên Xô (cũ). Các nhà nghiên cứu Tiệp Khắc như Mariot(1971), Salavikova(1973) đã tiến hành đánh giá và thành lập bản đồ tài nguyên du lịch nhân văn. Ngoài ra các nhà địa lý Mỹ như Bo6hart(1971) và nhà địa lý Anh như H.Robinson(1976)…cũng đã tiến hành đánh giá các loại tài nguyên thiên nhiên phục vụ mục đích du lịch. Bên cạnh đó những nhà khoa học người Ba Lan như Kostroviky (1970), Vacdunxka (1973) đã xác định dung lượng tối ưu khách du lịch cho một lãnh thổ. Tóm lại, nhiều nhà địa lí du lịch đã xác định đối tượng nghiên cứu của địa lí du lịch là hệ thống lãnh thổ hoặc thể tổng hợp lãnh thổ du lịch. Như vậy, đã xác định các hệ thống địa bàn phát triển du lịch trên lãnh thổ và phân tích cơ cấu tổng hợp các yếu tố trên địa bàn để phát triển du lịch. Ở Việt Nam Lịch sử ngành du lịch Việt Nam được đánh dấu từ năm 1960, từ đó đến nay các công trình nghiên cứu về địa lý du lịch nhìn chung chưa nhiều. Phần lớn tập trung các vấn đề về tổ chức lãnh thổ không gian du lịch. Qua đó làm sáng tỏ được nhiều vấn đề từ cơ sở lý luận đến thực tiễn trong nghiên cứu tài nguyên và sử dụng lãnh thổ du lịch, từ quy mô lãnh thổ cấp huyện, tỉnh, vùng đến cả nước.Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đến lĩnh vực này được thực hiện như: Đề tài: “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam” của Viện nghiên cứu phát triển du lịch do Vũ Tuấn Cảnh làm chủ nhiệm (1991).” Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam 1995 – 2010″ của Viện nghiên cứu phát triển du lịch (1994).” Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Bộ, vùng du lịch Bắc Trung Bộ, vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020″, Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2000). “Cơ sở lý luận phương pháp nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch biển Việt Nam” do Nguyễn Trần Cầu và Lê Thông chủ trì (1993); “Quy hoạch quốc gia và vùng, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ” do Vũ Tuấn Cảnh và Lê Thông (1994); “Địa lí du lịch Việt Nam” – Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (2010); “Tổ chức lãnh thổ du lịch” – Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ (1999); “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” do Phạm Trung Lương chủ biên (2000)… Nhiều địa phương cũng có triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể cho phát triển du lịch như :Lạng Sơn, Hải Phòng, Hà Nội, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bà Rịa – Vũng Tàu, TP.Hồ Chí Minh…Ngoài ra, còn có nhiều công trình – 4 – nghiên cứu, một số dự án, đề tài cấp Nhà nước, các báo cáo trong các cuộc hội thảo về du lịch của Việt Nam. Dưới góc độ địa lí học, ở trình độ thạc sĩ cũng có nhiều luận văn nghiên cứu theo hướng này Ở Khánh Hòa Đối với tỉnh Khánh Hòa, trong những năm gần đây, khi du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, hàng loạt các công trình nghiên cứu đã được tiến hành. Tuy vậy, các công trình này chỉ tập trung giới thiệu các điểm du lịch giàu tiềm năng và những định hướng cho quy hoạch phát triển. Sau đây là một số công trình nghiên cứu có giá trị: ” Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020″, Sở Kế hoạch – Đầu tư Khánh Hòa (2005).” Chương trình phát triển du lịch Khánh Hòa giai đoạn 2001- 2005 và 2006 – 2010″, UBND tỉnh (2001) và Sở Du lịch – Thương mại Khánh Hòa (2006). Quy hoạch tổng thể Du lịch tỉnh Khánh Hòa 2001 – 2020 (2001), điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (2006), Sở Du lịch – Thương mại Khánh Hòa. Nhìn một cách tổng thể, kể từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh của phát triển du lịch. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế du lịch, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ sự phát triển của du lịch Khánh Hòa. Việc nghiên cứu đánh giá tổng quan hoạt động du lịch tỉnh Khánh Hòa mà đặc biệt là phân tích tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch và đề xuất các giải pháp tối ưu nhằm khai thác hiệu quả du lịch Khánh Hòa hầu như chưa được nghiên cứu đầy đủ và cập nhật. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Những quan điểm chủ yếu -Quan điểm hệ thống Đây là quan điểm được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu du lịch. Theo quan điểm này, mỗi đối tượng nghiên cứu được coi là một hệ thống, có nhiều yếu tố cấu thành và có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi nghiên cứu đối tượng phải đặt nó trong mối tương quan với đối tượng khác, với các cấp phân vị cao thấp khách nhau. Với ý nghĩa đó, đề tài xác định du lịch Khánh Hòa là một bộ phận của hệ thống du lịch cao hơn, là một mắt xích trong vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, cũng như hệ thống du lịch của cả nước. Đồng thời, nó bao gồm các cấp phân vị thấp hơn là các điểm, tuyến, cụm, khu du lịch. Chỉ cần một thay đổi nhỏ của các phân hệ sẽ tác động đến hoạt động, phát triển chung của toàn hệ thống -Quan điểm tổng hợp Xuất phát từ chỗ coi hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống xã hội, được thành tạo bởi nhiều thành tố tự nhiên, văn hóa, lịch sử, con người có quan hệ mật thiết và – 5 – gắn bó với nhau một cách hoàn chỉnh theo từng phân công chức năng. Quan điểm này được vận dụng trong đề tài nhằm: – Nghiên cứu một cách tổng hợp các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch tỉnh Khánh Hòa. – Nghiên cứu sự kết hợp có quy luật của các hợp phần trên cơ sở phân tích tổng hợp các hợp phần đó của hệ thống lãnh thổ du lịch, từ đó có thể nhìn nhận, đánh giá các đối tượng du lịch một cách đồng bộ, đạt được những giá trị về mặt kinh tế -xã hội và môi trường -Quan điểm phát triển bền vững Quan điểm này đòi hỏi sự phát triển phải đạt được sự bền vững về ba mặt: Kinh tế,xã hội và môi trường. Theo đó việc khai thác các nguồn tài nguyên du lịch, tổ chức hoạt động du lịch chắc chắn sẽ dẫn đến sự tác động nhiều mặt cả tích cực lẫn tiêu cực đến môi truờng tự nhiên cũng như môi trường xã hội nhân văn. Do đó, cần có những biện pháp tổ chức, quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên -văn hóa-xã hội của địa bàn tỉnh Khánh Hòa -Quan điểm lãnh thổ Quan điểm lãnh thổ cho rằng các đối tượng nghiên cứu được phân bố trên phạm vi không gian lãnh thổ nhất định và có đặc điểm riêng. Xem xét hoạt động du lịch trong mối quan hệ với đặc điểm lãnh thổ nhằm khái quát được đặc trưng của du lịch trên từng địa bàn nghiên cứu. Và để mang lại hiệu quả tổ chức kinh doanh du lịch, cần tìm ra sự khac biệt trong từng đơn vị lãnh thổ từ đó tạo ra được sản phẩm du lịch đặc trưng, khai thác thế mạnh, khắc phục những hạn chế. -Quan điểm lịch sử và viễn cảnh Mỗi một hiện tượng địa lí kinh tế – xã hội nói chung và địa lí du lịch nói riêng đều tồn tại trong một thời gian nhất định, nghĩa là có quá trình phát sinh, phát triển và suy vong. Nghệ An là mảnh đất có nền văn hóa bản địa đặc sắc được hình thành lâu đời, cùng với truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường và nét độc đáo của thiên nhiên tạo cho vùng đất này một giá trị riêng. Các đặc điểm này được khai thác phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung và ngành du lịch của tỉnh Nghệ An nói riêng. Sử dụng quan điểm lịch sử, viễn cảnh để tìm hiểu quá trình khai thác, thực trạng phát triển của hoạt động du lịch tỉnh nhà; từ đó nhằm tiếp tục kế thừa, phát huy những thành quả, rút ra bài học kinh nghiệm và có kế hoạch phát triển trong tương lai. Ngoài ba quan điểm chủ đạo trên, trong đề tài còn đề cập một số quan điểm khác như quan điểm kinh tế, quan điểm sinh thái, quan điểm dự báo. Các phương pháp nghiên cứu chính -Phương pháp thu thập, xử lí phân tích tài liệu – 6 – Phương pháp này cho phéo kế thừa, tích lũy thành tựu của quá khứ. Đây là phương pháp được sử dụng hầu như xuyên suốt trong đề tài, bao gồm hai giai đoạn: thu thập tài liệu và xử lí tài liệu. Nguồn tài liệu được sử dụng trong đề tài có thể gồm các dạng: tài liệu chuyên khảo, các văn bản pháp luật, nghị quyết, nghị định; số liệu thống kê từ các cơ quan ban ngành; một số luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu của các tác giả đi trước; và một số trang báo điện tử Kết quả của quá trình thu thập và xử lí tài liệu sẽ ảnh hưởng đến kết quả của quá trình nghiên cứu, tính chính xác và tính khoa học của đề tài. -Phương pháp thực địa Sử dụng phương pháp này để có được cái nhìn trực quan, xác thực và toàn diện về vấn đề; tránh được những kết luận chủ quan, thiếu cơ sở thực tiễn và có cơ hội để so sánh, kiểm chứng độ chính xác của những tư liệu thu thập trong phòng. Quá trình thực hiện đề tài đòi hỏi phải tiến hành nhiều đợt thực địa đến các tuyến, điểm du lịch. Trong đó, lựa chọn một số điểm du lịch gần địa bàn thành phố, một số điểm ở các huyện vùng xa; một số điểm du lịch đã được khai thác và một số điểm tiềm năng. Đồng thời, trực tiếp gặp gỡ thu thập thông tin, kiến thức không có trên sách vở từ người dân bản địa, các cơ quan ban ngành -Phương pháp thống kê du lịch Việc thống kê số lượng khách, doanh thu hay cân đối giữa cơ cấu nhu cầu du lịch với các khả năng về tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xác định hiệu quả kinh tế du lịch của địa bàn nghiên cứu. -Phương pháp điều tra xã hội học Phương pháp điều tra xã hội học bao gồm ba hình thức: phỏng vấn trực tiếp cá nhân, đơn vị; phỏng vấn qua điện thoại và phỏng vấn bằng phiếu điều tra. Trong quá trình nghiên cứu, hình thức thứ ba được chúng tôi áp dụng nhiều nhất do có nhiều ưu điểm như: tiết kiệm chi phí, không qua khâu trung gian nên những câu trả lời là chắc chắn và xác thực, đặc biệt là những vấn đề tế nhị. -Phương pháp dự báo Với đề tài nghiên cứu sự phát triển du lịch cần có những dự báo về thị trường khách như số lượng, chất lượng khách…; về nhu cầu của thị trường cũng như dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch của địa bàn nghiên cứu trong tương lai để phù hợp với xu thế phát triển du lịch trong nước và thế giới. -Phương pháp bản đồ – GIS Với đặc thù là môn khoa học nghiên cứu khía cạnh lãnh thổ của các đối tượng địa lí và du lịch, phương pháp bản đồ cho ta thấy sự phân bố không gian của đối tượng. Có thể nói, bản đồ là điểm khởi đầu và kết thúc của hoạt động nghiên cứu; cho phép khai thác thông tin trên hệ thống bản đồ đã được xây dựng và tiến – 7 – hành thể hiện các kết quả nghiên cứu lên bản đồ. Theo mục tiêu nghiên cứu, đề tài sẽ xây dựng hệ thống các bản đồ tài nguyên, bản đồ thực trạng tỉnh Khánh Hòa. Và để có được kết quả nhanh và chính xác, với sự hỗ trợ đắc lực của kỹ thuật máy tính, đề tài đã sử dụng GIS để xây dựng hệ thống bản đồ. 6.Những đóng góp chính của đề tài -Tổng quan và hệ thống hóa vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch trên cơ sở đó vận dụng vào nghiên cứu cụ thể trên địa bàn của tỉnh Khánh Hòa. -Phân tích, đánh giá tiềm năng và đưa ra bức tranh về thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Khánh Hòa. Trên cơ sở đó tìm ra những mặt thuận lợi và khó khăn liên quan đến sự phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa hiện nay. -Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm mục đích góp phần vào việc khai thác tài nguyên để phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa hiệu quả và bền vững 7.Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng biểu, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch Chương 2. Tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2030 – 8 – Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch a.Khái niệm về du lịch Du lịch đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia, là bộ phận cấu thành lên đời sống vật chất -tinh thần của con người hiện đại. Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ lâu đời và phát triển với tốc độ rất nhanh, nhưng cho đến nay, khái niệm “du lịch” vẫn chưa được thể hiện thống nhất trên toàn thế giới. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) và dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu riêng về du lịch. Đúng như Giáo sư, Tiến sĩ Berneker -một chuyên gia về du lịch đã nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. [43, 55] Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh) – xuất hiện khoảng năm 1800, mypuzm (tiếng Nga). Trong tiếng Việt, thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng Hán: Du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi tourism là du lãm với ý nghĩa đi chơi để nâng cao nhận thức [40]. Về khái niệm, có thể thấy sự biến đổi nhận thức thông qua một số khái niệm du lịch tiêu biểu sau đây: Theo UNWTO: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. [40, 54] Theo Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải: “Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác” [trích dẫn theo Trần Đức Thanh 1998] Năm 1930, Glusman (Thụy Sĩ) định nghĩa: Du lịch là sự chinh phục không gian của những người hướng đến những điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở thường xuyên của họ. Cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải là tất cả những gì có liên quan đế sự di chuyển đó. Năm 1941, Hunziker và Kraff (Thụy Sĩ) cho rằng: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ [40] – 9 – Theo Michael Coltman (Mỹ): “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”[55] Có thể thể hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:
(Nguồn: [15])
Dưới con mắt các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả có những nhận định khác nhau. Các nhà kinh tế du lịch thuộc trường Đại học Kinh tế Praha (Cộng hòa Séc) mà đại diện là Mariot coi : “du lịch là tổng hợp các hoạt động kĩ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con người và việc lưu trú của họ ở ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau loại trừ mục đích hành nghề và thăm viếng có tổ chức thường xuyên”. Theo hội đồng trung ương về du lịch của Cộng hòa Pháp 1978, tiêu chí chính để phân biệt giữa hoạt động du lịch và hoạt động giải trí đơn thuần là di chuyển từ 24 tiếng trở lên và động cơ tìm sự vui vẻ. Ở đây du lịch là khái niệm thiên về tiếp cận kinh tế, còn nếu thiên về tiếp cận xã hội thì sẽ có khái niệm giải trí. Gần đây hơn, trong “Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan”, với một nội dung chi tiết, nhà đia lí người Bêlarut – Pirojnik đã đưa ra một khái niệm khá hoàn thiện: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi liên quan với sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi thường trú nhằm mục đích nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ”.[55] Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [20] Như vậy, có thể thấy sự biến đổi trong nhận thức về nội dung bản chất của thuật ngữ du lịch. Tựu chung lại, du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt mang ý nghĩa thông thường là hiện tượng xã hội chỉ việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí… Mặt khác, du lịch được nhìn nhận như là hoạt động gắn chặt với kết quả kinh tế – sản xuất, tiêu thụ do chính nó tạo ra. Du khách
Nhà cung ứng dịch vụ du lịch
Dân cƣ sở tại
Chính quyền địa phƣơng nơi đón khaùch du lòch – 10 – b. Khách du lịch Khái niệm “Khách du lịch” hay “Du khách”, xuất hiện lần đầu tiên tại Pháp vào cuối thế kỉ XVIII. Tới nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về khách du lịch. Theo tổ chức Du lịch thế giới, khách du lịch là những người có các đặc trưng: – Là người đi khỏi nơi cư trú của mình – Không theo đuổi mục đích kinh tế – Đi khỏi nơi cư trú từ 24 giờ trở lên Điểm chung nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch là: Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao ở nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến từ 24 giờ trở lên (hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) nhưng không quá thời gian một năm. Khách du lịch là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục tiêu như nghỉ ngơi, kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình. Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa. * Khách du lịch quốc tế Tại hội nghị Liên hiệp quốc về du lịch được tổ chức ở Roma (Ý) năm 1963, Ủy ban thống kê của Liên hợp quốc đưa ra khái niệm khách du lịch quốc tế: là người thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư trú của mình với bất kỳ lí do nào ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng thăm. Khái niệm khách viếng thăm quốc tế bao gồm hai thành phần: khách du lịch quốc tế (International tourist) – là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít nhất một tối trọ). Và khách tham quan quốc tế (International excursionist) – là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít hơn 24 giờ (hoặc là không sử dụng một tối trọ nào). * Khách du lịch nội địa: Định nghĩa khách du lịch nội địa sớm nhất được nêu ra vào năm 1957 và 1958. Lúc bấy giờ cuộc hội thảo di Cục du lịch của chính phủ Canada cùng Hội liên hợp tổ chức du lịch chính phủ quốc tế cùng triệu tập và hội nghị của nhóm chuyên gia thống kê du lịch tổ chức ở Madrid quy định khách nội địa là: “Bất cứ ai cư trú ở một nước (không xét tới quốc tịch) tới một nơi nào đó ngoài nơi người đó cư trú ở trong nước người đó để tiến hành du lịch không dưới 24 giờ hoặc không dưới một đêm, mà mục đích lữ hành không phải là các hoạt động thăm viếng theo đuổi để có thù lao”[40]. Tuy nhiên, khái niệm khách du lịch nội địa được xác định không giống nhau ở các nước khác nhau về khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú. – 11 – Căn cứ theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), khái niệm: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [20] c. Tài nguyên du lịch * Khái niệm tài nguyên du lịch Theo Pirojnik (Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan), du lịch là một ngành định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung, khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2005, khoản 4, điều 4, chương I: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch”.[20] Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”[55]. * Đặc điểm tài nguyên du lịch – Tính phong phú và đa dạng: Đặc điểm này là cơ sở để tạo nên sự phong phú của sản phẩm du lịch, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch. – Sự kết hợp giữa giá trị hữu hình và vô hình: Tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị vật chất là phương tiện hữu hình, hình thành nên các sản phẩm du lịch, mà còn chứa đựng những giá trị vô hình. Giá trị này được thể hiện qua sự cảm nhận, cảm xúc tâm lý và sự thỏa mãn nhu cầu của du khách, đồng thời còn được thể hiện qua kênh thông tin mà khách du lịch nhận được về sản phẩm. – Tính dễ khai thác: hầu hết các tài nguyên du lịch vốn đã có sẵn trong tự nhiên hoặc do con người tạo nên. Do đó, chỉ cần đầu tư không lớn đã có thể tôn tạo, tăng them vẻ đẹp và tạo ra điều kiện thuận lợi nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên này. – Tính thời vụ: Thời gian có thể khai thác và thời điểm khai thác các loại tài nguyên thường không giống nhau và thay đổi trong năm tùy thuộc chủ yếu bởi yếu tố khí hậu và tập quán dân gian. Điều này đã chi phối và quyết định tính mùa trong du lịch. – Tính bất biến về mặt lãnh thổ: đối với sản phẩm được tạo ra từ loại tài nguyên du lịch này thì du khách phải đến tận nơi để tận hưởng và thưởng thức; tạo nên lực hút cơ sở hạ tầng, dòng du lịch tập trung đến loại tài nguyên đó và là thế mạnh đặc trưng của từng địa phương. – 12 – – Khả năng sử dụng nhiều lần: nếu tuân theo các quy luật tự nhiên, sử dụng hợp lý và áp dụng những biện pháp bảo vệ chung thì tài nguyên du lịch là một loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. * Phân loại tài nguyên du lịch Để khai thác hợp lí và có hiệu quả tài nguyên du lịch theo hướng bền vững cần tiến hành phân loại tài nguyên du lịch một cách phù hợp và mang tính khoa học. Hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác nhau của nhiều tác giả và các cơ quan nghiên cứu du lịch ở nước ta cũng như quốc tế. Sau đây là một vài cách phân loại: – Tổ chức du lịch Thế giới (UNWTO,1997) đã xây dựng hệ thống phân loại tài nguyên du lịch thành 3 loại, 9 nhóm gồm: loại cung cấp tiềm tang (gồm 3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên kinh điển, vận động); loại cung cấp hiện đại (gồm 3 nhóm: đường sá, thiết bị, hình tượng tổng thể) và loại tài nguyên kĩ thuật (gồm 3 nhóm tính năng: hoạt động du lịch, cách thức và tiềm lực khu vực). – Ở nước ta, cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, một số tác giả (Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Đặng Duy Lợi, Phạm Trung Lương…) trong quá trình đánh giá tài nguyên du lịch Việt Nam đã phân chúng thành hai nhóm: Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: địa hình, khí hậu; nguồn nước; sinh vật. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích văn hóa lịch sử; các lễ hội; các đối tượng gắn với dân tộc học; các đối tượng văn hóa thể thao và hoạt động nhận thức khác [55]. d. Sản phẩm du lịch *Khái niệm sản phẩm du lịch Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, hợp thành bởi nhiều bộ phận kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của du khách trong chuyến du lịch. Do đó, sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách; được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực là: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó [15]. Sản phẩm du lịch = Dịch vụ du lịch + Tài nguyên du lịch Trong đó, tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Còn dịch vụ du lịch, xét dưới góc độ là quá trình tiêu dùng của khách du lịch, có thể được tổng hợp theo các nhóm cơ bản sau: – Dịch vụ vận chuyển: Du lịch gắn với những chuyến đi và sự di chuyển nên không thể thiếu loại dịch vụ này. Nó bao gồm việc đưa khách đến điểm du lịch và di chuyển trong phạm vi điểm đến. – 13 – – Dịch vụ lưu trú, ăn uống: cơ sở thuê buồng, giường phục vụ hoạt động nghỉ ở lại và ăn uống – loại nhu cầu không thể thiếu của du khách. Đây là hoạt động kinh doanh đáng kể trong du lịch. – Dịch vụ tham quan, giải trí: là một bộ phận quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, thu hút và lôi kéo khách du lịch. Đảm bảo cho khách du lịch sử dụng tối ưu thời gian rỗi và tăng thu nhập cho nhà kinh doanh du lịch. – Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm: đây cũng là hoạt động tăng tính hấp dẫn, để lại dấu ấn cho sản phẩm du lịch và là nhu cầu không thể thiếu của nhiều du khách. – Ngoài ra, còn có các dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung, bao gồm: + Dịch vụ thu gom, sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một sản phẩm du lịch. Thể hiện qua việc các cơ sở mua lại những dịch vụ khác nhau, sắp xếp, phối hợp chúng thành một chương trình du lịch trọn gói hoặc đơn giản. + Dịch vụ bán lẻ sản phẩm du lịch: cung cấp thông tin và bán lẻ các sản phẩm du lịch cho khách du lịch. * Đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch – Sản phẩm du lịch có tính tổng hợp: nó kết hợp các loại dịch vụ do nhiều đơn vị cá nhân, thuộc các ngành khác nhau cung cấp. – Sản phẩm du lịch chủ yếu tồn tại ở dạng vô hình: tuy sản phẩm du lịch bao gồm cả yểu tố hữu hình và vô hình, nhưng yếu tố hữu hình là hàng hóa chiếm tỉ trọng nhỏ, trong khi yếu tố vô hình là dịch vụ thường chiếm 80 – 90% về giá trị. Do đó, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, thường mang tính chủ quan và phụ thuộc vào khách du lịch. – Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Do đó, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch, mà thực tế buộc khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. – Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian. Không bán được cũng có nghĩa là không thể lưu kho và hầu như không còn giá trị, do đó phần lớn sản phẩm du lịch tự tiêu hao. – Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn mà có thể tập trung vào thời gian nhất định, tạo nên tính mùa trong hoạt động kinh doanh du lịch. – Sản phẩm du lịch không có tính đồng nhất: các nhân viên không thể tạo ra những sản phẩm như nhau trong những thời gian làm việc khác nhau. Khách du lịch khác nhau trong những thời gian, bối cảnh khác nhau cũng có những cảm nhận khác nhau về sản phẩm du lịch [55]. e. Các loại hình du lịch – 14 – Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch tùy theo tiêu chí khác nhau, các chuyên gia du lịch Việt Nam thường phân chia theo các tiêu chí cơ bản sau [55]: – Theo nhu cầu của khách: du lịch chữa bệnh, nghỉ ngơi, thể thao, văn hóa, công vụ, tôn giáo, thăm hỏi… – Theo phạm vi lãnh thổ: du lịch nội địa, du lịch quốc tế. – Theo vị trí địa lí các cơ sở du lịch: du lịch nghỉ biển, nghỉ núi. – Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: du lịch xe đạp, máy bay, ô tô, tàu thủy, tàu hỏa. – Theo thời gian của cuộc hành trình: du lịch ngắn ngày, dài ngày. – Theo lứa tuổi: du lịch thanh niên, thiếu niên, gia đình. – Theo hình thức tổ chức: du lịch có tổ chức, cá nhân. 1.1.2. Chức năng của du lịch a. Chức năng xã hội Chức năng xã hội của du lịch thể hiện trước hết ở chỗ, du lịch tạo ra nhiều công ăn việc làm và là công cụ giảm nghèo khá hiệu quả. Du lịch là ngành thu hút lao động rất lớn. Theo thống kê của UNWTO, lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ du lịch hiện chiếm hơn 10,7% tổng lao động trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, hàng năm, ngành du lịch tạo ra thêm 15.000 – 20.000 chỗ làm việc trực tiếp trong các khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ du lịch. Với sự phát triển của du lịch, dân cư có nhiều cơ hội tìm việc làm ngay tại địa bàn mình sinh sống với thu nhập cao, và cũng có nhiều cơ hội được đào tạo nghề, được hưởng thụ hạ tầng kỹ thuật tốt. Du lịch còn góp phần thỏa mãn những nhu cầu tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống, phục hồi sức khỏe, tái sản xuất khả năng lao động và tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong một chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và tăng cường khả năng lao động của con người. Theo các công trình nghiên cứu về y sinh học của Crivosev, Dorin (1981), nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư giảm trung bình 30%. Đặc biệt, bệnh tim mạch giảm 50%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh tiêu hóa giảm 20%. Một số khu điều dưỡng khẳng định rằng, nước khoáng của những vùng này có thể chữa được bệnh lao phổi, bệnh scorbut do thiếu Vitamin C, các bệnh về da liễu, chảy máu lợi… Bên cạnh đó, du lịch còn có tác dụng giáo dục tính thẩm mỹ, tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc khi trực tiếp được tiếp xúc với các thắng cảnh của đất nước, các công trình văn hóa, di tích lịch sử dân tộc. Đồng thời, du lịch là điều kiện để mọi người xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn và tăng tính đoàn kết cộng đồng. Đối với quan hệ quốc tế, du lịch là cơ hội để mở rộng, củng cố, thắt chặt tình hữu nghị thân ái giữa các quốc gia trên thế giới. b. Chức năng kinh tế – 15 – Du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước. Theo thống kê của UNWTO, thu nhập du lịch chiếm trên 10% GDP của thế giới [24]. Hơn nữa thu nhập tạo ra trong ngành du lịch là “thu nhập kép”, khi phát triển một cơ sở dịch vụ này sẽ kéo theo sự phát triển của hàng loạt các hoạt động kinh tế khác. Theo “Economics of leisure and tourism” (John Tribe): Cứ mỗi USD tiêu dùng của khách du lịch sẽ tạo ra khoảng 2 – 3 USD thu nhập gia tăng [24]. Du lịch còn là ngành kinh tế có đóng góp quan trọng vào nguồn thu của chính phủ thông qua nghĩa vụ thuế. Đây còn là ngành xuất khẩu tại chỗ với nhiều ưu thế nổi trội, góp phần quan trọng vào việc thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, sự phát triển du lịch giúp đa dạng hóa và kích thích sự phát triển của các ngành kinh tế khác: giao thông vận tải, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại… Ngoài ra, còn tăng cường cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cho cộng đồng. Tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Ở một khía cạnh gián tiếp, du lịch còn tác động đến kinh tế của một quốc gia thông qua việc phục hồi sức khỏe, khả năng lao động và đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt [54]. c. Chức năng sinh thái Chức năng sinh thái của du lịch thể hiện qua việc tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái, giúp con người sống hòa hợp với thiên nhiên. Tiềm năng tự nhiên đối với du lịch của lãnh thổ góp phần tối ưu hóa tác động qua lại giữa con người với môi trường tự nhiên trong điều kiện công nghiệp hóa, đô thị. Du lịch góp phần vào việc bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên, giúp khai thác tốt hơn, có hiệu quả hơn các không gian đẹp, cảnh quan thiên nhiên; thúc đấy việc nghiên cứu, phát hiện công nhận thêm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn mới, tăng cường đầu tư làm phong phú thêm các không gian du lịch; làm tăng khối lượng và chất lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hơn thế nữa, du lịch còn nâng cao nhận thức của con người về giá trị của tự nhiên, thay đổi thái độ và hành vi đối với môi trường thiên nhiên. d. Chức năng chính trị Du lịch như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề về du lịch được đưa ra năm 1967 là “Du lịch – giấy thông hành của hòa bình”.
– 16 – 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch a. Vị trí địa lí Vị trí địa lí với tư cách là một trong những nguồn lực để phát triển du lịch. Điều kiện về vị trí địa lí bao gồm: – Điểm du lịch nằm trong khu vực phát triển du lịch; – Khoảng cách từ điểm du lịch đến các nguồn gửi khách du lịch ngắn. Khi phân tích và đánh giá vị trí địa lí, cần đặt nó trong khung cảnh của vùng, của quốc gia và quốc tế (nếu có). [54] b. Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự nhiên xung quanh chúng ta có sức hấp dẫn phát triển du lịch. Các đối tượng tự nhiên cần quan tâm khi nghiên cứu du lịch là: địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật.
Hình 1.1: Sơ đồ phân loại tài nguyên du lịch [Nguồn: Địa lí Du lịch Việt Nam-55]
Theo Luật du lịch (Điều 13, chương II): “Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.[20] – Địa hình: Hình dạng bề mặt đất ảnh hưởng đến du lịch với sự hấp dẫn của danh thắng tự nhiên, cũng như khả năng xây dựng các cơ sở du lịch thuộc các loại hình TÀI NGUYÊN DU LỊCH Tài nguyên tự nhiên Tài nguyên nhân văn Địa hình Khí hậu Thủy văn Sinh vật Di tích VH – LS Lễ hội Dân tộc học Nhân văn khác DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI DI SẢN HỖN HỢP – 17 – khác nhau. Khi phân tích ảnh hưởng của địa hình với hoạt động du lịch người ta chú ý đến hai yếu tố là hình thái địa hình và các dạng địa hình đặc biệt. I.A. Vedenin (1975) cho rằng khu vực có các kiểu địa hình các tương phản về mặt hình thái thì phong cảnh càng đẹp và được đánh giá càng cao đối với du lịch. Và trên thực tế, các dạng địa hình tương đối đơn điệu về mặt ngoại hình ít gây được cảm hứng cho khách du lịch. Trong các dạng địa hình thì miền núi có ý nghĩa lớn nhất đối với du lịch. Ngoài các dạng địa hình chính, các dạng địa hình đặc biệt có ý nghĩa đối với du lịch cần được quan tâm là dạng địa hình Karst và địa hình ven bờ. Một trong những kiểu Karst được quan tâm nhất đối với du lịch là hang động Karst. Đối với kiểu địa hình ven bờ đây là dạng tài nguyên có thể khai thác phát triển du lịch với nhiều mục đích khác nhau thông qua chỉ tiêu đánh giá mức độ thuận lợi của các bãi biển để phát triển du lịch (chiều dài – rộng, độ mịn của cát, độ dốc, độ trong, độ mặn…). – Khí hậu: Đối với hoạt động du lịch, đặc điểm khí hậu sinh học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các chỉ tiêu khí hậu được quan tâm nhất là nhiệt độ không khí và độ ẩm không khí. Ngoài ra, các tiêu chí sinh học khác được chú ý là yếu tố gió, áp suất, khí quyển, ánh nắng mặt trời. Bên cạnh đó, cần lưu ý tới những hiện tượng thời tiết đặc biệt chi phối tới các kế hoạch du lịch. Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Nhìn chung, những nơi có khí hậu điều hòa thường được khách du lịch ưa thích. Điều kiện khí hậu còn tác động đến tính mùa trong du lịch. Phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, hoạt động du lịch có thể diễn ra quanh năm hoặc trong một vài tháng. Các địa phương khác nhau có tính mùa du lịch không như nhau. Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến đi hoặc các hoạt động du lịch. Yếu tố khí hậu còn tác động gián tiếp đến hoạt động du lịch qua tác động đến độ bền tài nguyên du lịch, làm phong hóa nhanh các công trình, các di tích lịch sử – văn hóa và thay đổi diện mạo cảnh quan tự nhiên. – Thủy văn: Tài nguyên nước phục vụ du lịch bao gồm nước trên mặt, nước dưới đất và nước khoáng. Trong đó, nguồn nước trên mặt có ý nghĩa to lớn nhất. Ngoài ra, cần phải nói đến nguồn nước khoáng với những thành phần vật chất đặc biệt (các nguyên tố hóa học, chất khí, nguyên tố phóng xạ…), hoặc có một số tính chất vật lý (nhiệt độ, độ pH…) có tác dụng đối với sức khỏe con người; đây là nguồn tài nguyên có giá trị cho du lịch an dưỡng và chữa bệnh. – Sinh vật: Tài nguyên sinh vật là dạng tài nguyên đặc biệt, có giá trị tạo nên cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hấp dẫn đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, khám phá và nâng cao nhận thức cho du khách. Đối với một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học thì tài nguyên sinh vật có ý – 18 – nghĩa đặc biệt quan trọng ở tính đa dạng sinh học, sự bảo tồn các nguồn gen quý giá đặc trưng cho các vùng tự nhiên khác nhau trên thế giới. * Tài nguyên nhân văn Tài nguyên nhân văn là những đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ nhu cầu du lịch. Đối với du lịch, người ta khai thác các giá trị nhân văn sau: các di tích văn hóa – lịch sử, lễ hội, các đối tượng dân tộc học và các giá trị nhân văn khác. Theo điều 13, chương II, Luật du lịch năm 2005: “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”. – Các di tích văn hóa – lịch sử: Ở Việt Nam, theo luật di sản văn hóa (2001) thì: “Di sản văn hóa là những công trình xây dựng và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc các công trình, địa điểm có giá trị lịch sử – văn hóa và khoa học”. Di sản văn hóa được phân chia thành di tích văn hóa – khảo cổ, di tích lịch sử, di tích văn hóa nghệ thuật và các danh lam thắng cảnh [55]. Khi đánh giá đối tượng nhân văn này, cần quan tâm các tiêu chí: Tổng số di tích các loại trên lãnh thổ; số di tích được xếp hạng quốc gia; mật độ di tích trên một đơn vị diện tích [55]. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa khác nhau. Chỉ tiêu đầu tiên đánh giá về số lượng di tích, hai chỉ tiêu sau đánh giá về chất lượng di tích. Đây là những chỉ tiêu quan trọng để phân tích khả năng khai thác, phát triển du lịch của các di tích văn hóa – lịch sử. – Lễ hội Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc hướng về một sự kiện trọng đại, ôn lại truyền thống, giải quyết nỗi âu lo Lễ hội là một yếu tố văn hóa quan trọng trong đời sống xã hội, ở mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc từng nét văn hóa đó chứa đựng những tính chất, đặc trưng riêng, mang hơi thở vào cuộc sống của xã hội đó. Nó phù hợp với điều kiện sống cụ thể, nó nảy sinh và bị chi phối bằng các hình thức, phương thức lao động, hoàn cảnh sống và môi trường tự nhiên. Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Thời gian diễn ra lễ hội thường khác nhau. Nói chung, xuất hiện vào thời điểm thiêng liêng của sự chuyển tiếp giữa các mùa. Ở một chừng mực nhất định, lễ hội cũng tạo ra tính mùa của du lịch [54]. Phân tích giá trị của lễ hội với du lịch người ta thường tập trung các tiêu chí: Thời gian diễn ra lễ hội (mùa nào, tháng nào), độ dài của lễ hội; địa điểm tập trung – 19 – lễ hội; ý nghĩa của lễ hội (ý nghĩa địa phương, quốc gia) và đặc biệt là khả năng đón khách và kinh doanh du lịch [55]. – Các đối tượng gắn với dân tộc học Sự huyền bí, nét đặc sắc của các đối tượng dân tộc học ngày càng thể hiện rõ giá trị của mình đối với các nhà du lịch trên hành trình tìm kiếm, gặp gỡ, nuôi dưỡng các nền văn hóa ấy, đồng thời “không ngừng tìm kiếm bản sắc dân tộc mình”. Các đối tượng dân tộc học có ý nghĩa đối với du lịch là các tập tục lạ về cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống – sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các nét truyền thống trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc… Khi đánh giá đối tượng dân tộc, các tiêu chí được quan tâm là: tổng số dân trên lãnh thổ; các dân tộc và cơ cấu dân tộc; đặc điểm phong tục tập quán của các dân tộc và khả năng hình thành loại hình, sản phẩm du lịch từ đối tượng đó [55]. – Các tài nguyên nhân văn khác + Các làng nghề: làng nghề truyền thống là tinh hoa về mặt công nghệ, kĩ thuật của một vùng thể hiện qua các sản phẩm có tính khu biệt, qua cách sống, các phong tục tập quán, văn hóa ứng xử của cộng đồng. Làng nghề và các nghề thủ công truyền thống từ lâu đã trở thành đối tượng của hoạt động du lịch, nơi con người hướng tới để khám phá, tìm hiểu và chiêm nghiệm sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các giá trị vật chất và tinh thần một cách hài hòa và sinh động nhất. + Một số các đối tượng văn hóa khác cũng thu hút khách với mục đích tham quan, nghiên cứu như: trung tâm của các viện khoa học, các thư viện lớn và nổi tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm thường xuyên tổ chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế, biểu diễn ba lê, các cuộc thi hoa hậu… Các đối tượng văn hóa thường tập trung ở các thủ đô và thành phố lớn vì thế các thành phố này mặc nhiên trở thành những trung tâm du lịch văn hóa của các quốc gia, vùng – khu vực và là hạt nhân của các trung tâm du lịch. + Các thành tựu kinh tế của đất nước hoặc vùng cũng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch… c.Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là đòn bẩy của mọi hoạt động kinh tế, đối với du lịch cở sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó nổi bật là mạng lưới và phương tiện giao thông. Ngoài ra, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện nước cũng là một phần không thể thiếu, có vai trò phục vụ trực tiếp hoạt động du lịch. – Hệ thống giao thông vận tải: Du lịch gắn với sự di chuyển của con người, vì vậy nó phụ thuộc trực tiếp vào giao thông. Về phương diện này, mạng lưới và phương tiện giao thông là những nhân tố quan trọng hàng đầu.